19 thg 12, 2020

SAO LẠI XẾP "TRANG TRẢI" VÀO "TỪ LÁY"?

                 HOÀNG TUẤN CÔNG 

Trang thóc
Ảnh: ST

       

         “Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành Chủ biên) thu thập và giải thích:

TRANG TRẢI đgt. Thu xếp để trả cho hết, cho xong (các khoản nợ nần). “Trông vào mấy sào mía để bán đi trang trải nợ nần” (Nam Cao)”.

18 thg 12, 2020

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 33)

 

      HOÀNG TUẤN PHỔ


       Tôi phóng một mạch qua cầu Gián Khuất, Phủ Lý, rồi đến Hà Nội. Đất Kinh Kỳ nổi tiếng “Hà Nội băm sáu phố phường” có khác. Phố nào cũng đông đúc, phường nào cũng nhộn nhịp. Tôi không dám dừng lại Hà Nội, hỏi thăm ngay đường lên Bắc Ninh.

17 thg 12, 2020

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 32)

 

Ảnh minh hoạ: ST
                   HOÀNG TUẤN PHỔ
          Hai người khách đã lên giường nằm ngủ sớm, chắc khá mệt sau ngày đường lặn lội cát bụi. Vài tiếng ngáy vô tư cất lên rồi vụt tắt.

Tôi ăn xong, bà quán rót cho tôi hơn nửa bát nước vối cuối cùng trong ấm. Chao ôi! Chát đến khén cả họng. Thấy tôi nhăn mặt, bà nhẹ nhàng cười: “Chịu khó uống chát. Đàn bà sinh đẻ chuyên trị nước chè vối đặc khắm để tiêu cơm, tiêu độc!”.

6 thg 12, 2020

CÂY CHÈ THANH HOÁ VÀ GIỐNG CHÈ NGON YÊN LƯỢC (Kỳ cuối)

 

      HOÀNG TUẤN PHỔ


Cây chè hoang quen sống lang thang vô định nơi sườn núi ven sông suối, đánh bạn với gió núi mây ngàn, bỗng chốc theo người “hạ sơn” kết duyên cùng đất đồi Sánh – Lược. Ở đây mưa nắng thất thường, mùa hè có khi nắng táp, mùa thu không ít mưa dầm. Về thổ nhưỡng cũng không đều, chỗ này giàu kali, nơi kia lắm mùn hữu cơ feralitphat, nhưng đồi thấp nói chung dễ bị rửa trôi như chỉ khoác trên mình tấm áo mỏng chịu sao nổi gió mưa. Phổ biến đồi thấp Yên Lược kết vón đá ong ở tầng trên hoặc tầng dưới, phản ứng chua PH kali từ 10,0 – 5,2, hàm lượng mùn nghèo... như dãy đồi thấp tiếp nối Yên Trường, Phúc Bồi, Phúc Địa...

“MẦM MỐNG” CÓ PHẢI LÀ TỪ LÁY?


Lúa mống
Ảnh: ST

        HOÀNG TUẤN CÔNG


          “Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên – NXB Khoa học xã hội – 2013) thu thập và giải nghĩa: “MẦM MỐNG dt. Cái mới chớm nở, mới phát sinh. Những mầm mống của sự chia rẽ bè phái”.

          Thực ra, “mầm mống” là từ ghép đẳng lập: “mầm” là phần mới nhú ra từ hạt, sinh trưởng thành cây sau này, nghĩa rộng, nghĩa bóng là nguồn cơn, cái gốc, cái khởi phát vấn đề (như ươm mầm; gieo mầm; mầm ác; lúa mầm = lúa ngâm cho nứt thành mầm rồi luộc lên cho vịt ăn, hoặc làm mồi đánh cá rô); “mống” cũng có nghĩa là mầm (như lên mống; mọc mống; lúa mống = lúa chín bị ngập nước, hoặc vì không thu hoạch, phơi sấy kịp nên bị lên mầm).

“SỞ” TRONG CÂU “ĂN CÓ SỞ Ở CÓ NƠI” NGHĨA LÀ GÌ?

 


HOÀNG TUẤN CÔNG


“Từ điển tục ngữ Việt”
(Nguyễn Đức Dương – NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh – 2010) giảng:Ăn có sở; ở có nơi: Ăn thì nên chọn những thứ hợp sở thích mà ăn; ở thì nên chọn những nơi thuần hậu mà cư ngụ”. (chú thích: “sở dt. Sở thích [nói tắt]”.

Tuy nhiên, soạn giả hiểu sai nghĩa của từ “sở”, nên diễn giải sai, và dẫn đến giải thích sai cả hai vế, cũng là sai cả câu.

“Sở” đây có nghĩa là “nơi, chốn”, mà Hán ngữ đại từ điển giảng là “xứ, địa phương(處所;地方), chứ không phải “sở” là “sở thích”. Từ điển Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập): “sở • Chốn, nơi <> xứ-sở.”; Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức): “sở I Nơi, chốn, thửa <> ở yên sở. Một sở ruộng. Nghĩa rộng: Nơi có đông người làm việc <> Sở xe lửa”.

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 31)

 

Cảnh rừng núi đoạn Dốc Xây
Ảnh: ST
HOÀNG TUẤN PHỔ

Cơm nước xong, tôi cởi  bỏ quần áo rách vá, thay bộ đồ nâu khác còn lành- thứ y phục sang nhất-ít khi dám dùng đến. Thế là “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”. Tất nhiên tôi làm gì có gươm giáo, chỉ giắt lưng mấy đồng bạc để đánh giặc đói, giặc khát. Cưỡi con ngựa sắt, tôi cứ thẳng con đường xuyên Việt mà đi. Bà con thị xã Thanh Hoá bảo tôi sẽ ra đến Hà Nội, vượt cầu Long Biên qua Gia Lâm đến Bắc Ninh. Quả là “nước non ngàn dặm ra đi…cái tình chi?…”

10 thg 11, 2020

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 30)


         HOÀNG TUẤN PHỔ

Đêm ba mười Tết cả nhà bàn bạc, thống nhất sang năm mới tôi tìm đường về quê xưa, mong có lối thoát cho gia đình.

Rất may, phương tiện giao thông tôi đã có chiếc xe đạp. Giữa tháng chạp, sau chuyến xe thồ cói cuối cùng, nhà tôi nói dối phải mang xe lên Cầu Quan bán để trả nợ, rồi thẳng đường cái đến nhà dì tôi ở làng Phương Khê, xã Nông Trường, phía trên Cổ Định, gửi nhờ cất kỹ.

5 thg 11, 2020

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 29)

 

HOÀNG TUẤN PHỔ


Lại nghe tin Thanh Hoá  sắp sửa cải cách ruộng đất!

Nhà mình đã trải qua cuộc đấu tranh chính trị kinh thiên động địa, nay đến Cải cách ruộng đất, nghe nói còn lở đất long trời hơn. Cha mẹ, ông bà cùng các cụ liệu có trụ nổi? 

Không có thống kê chính xác về cuộc đấu tranh chính trị, nhưng chú tôi bị tù ở Nghệ An, nghe bạn tù Thanh – Nghệ - Tĩnh kể chuyện thì hàng vạn người bị đấu tố, hàng nghìn người bị bắt giam, hàng trăm người bị đưa ra toà xử án. Còn các gia đình liên quan nhiều không biết bao nhiêu mà kể!

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 28)

Ảnh: ST
HOÀNG TUẤN PHỔ

    

Tôi không biết đi xe đạp, bố tôi phải giữ cho tôi tập hai đêm trong sân, rồi tập đi trên đường. Tất cả các buổi tập đều vào buổi tối, vì sợ ban ngày nhiều nhiều kẻ xấu bụng đặt điều này tiếng nọ rồi đến tai chính quyền xã. Khi bắt đầu thồ cói, nhà tôi phải nói dối xe mượn bên ngoại, tránh tiếng “khả năng”!

1 thg 11, 2020

Kỳ cuối: “HÁN HOÁ TIẾNG VIỆT” TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT - HÁN”

 

     HOÀNG TUẤN CÔNG

“Hán hoá tiếng Việt” là gì? “Hán hoá tiếng Việt” ở đây được hiểu cụ thể là áp đặt các đơn vị thành ngữ tục ngữ trong tiếng
Hán vào tiếng Việt, làm cho tiếng Việt giống với tiếng Hán, người Việt nói theo cách của người Hán.

Trước khi đi vào cụ thể, chúng tôi xin nêu lại: Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Hán của Nguyễn Văn Khang là loại từ điển đối chiếu, không phải từ điển giải thích. Tác giả NVK không dành một lời nào quy ước về cấu tạo của mỗi mục từ. Nhưng trong “Lời nói đầu” của bản in năm 1999, tác giả NVK đã viết: “Nói một cách cụ thể về cách làm là, trước một thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, chúng tôi cố gắng tìm các thành ngữ, tục ngữ tiếng Hoa tương đương”. Và theo quan sát của chúng tôi, trong mỗi mục từ, “thành ngữ tục ngữ tiếng Việt” được nêu ra trước, tiếp đến là phần đối chiếu với thành ngữ tục ngữ Hán được viết bằng nguyên văn chữ Hán kèm phiên âm Bắc Kinh. Vì đây là từ điển đối chiếu, nên tất cả các mục không kèm lời giải thích.

31 thg 10, 2020

Kỳ 3: SAI CHÍNH TẢ TRONG "TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT - HÁN"


               HOÀNG TUẤN CÔNG 

Nguyễn Văn Khang (NVK) là tác giả và đồng tác giả của 19 cuốn từ điển tiếng Việt. Về từ điển chính tả, NVK có “Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông” (NXB Khoa học Xã hội - 2003) và “Từ điển chính tả tiếng Việt” (GS. TS. Nguyễn Văn Khang – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2018). Chúng tôi đã có loạt bài viết chỉ ra hàng trăm lỗi chính tả trong hai cuốn từ điển vừa nêu, trong đó cuốn xuất bản năm 2018, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội đã buộc phải thu hồi.

Với “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt-Hán”, một lần nữa tác giả NVK lại cho thấy khả năng chính tả tiếng Việt hạn chế của ông. Cụ thể, những sai sót trong cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang, tiếp tục được lặp lại, như lỗi lẫn lộn CH với TR, S với X; D với R; GI với D; L với N; IU với ƯU; dấu hỏi ( ̓ ) với dấu ngã (~) và rất nhiều lỗi văn bản khác. 

18 thg 10, 2020

“SÁP NHẬP” HAY “SÁT NHẬP”?


"Sáp" có một nghĩa
là "cắm vào"
                 HOÀNG TUẤN CÔNG


      Nhiều người thường băn khoăn, thắc mắc không biết trong hai từ “sáp nhập” và “sát nhập”, từ nào mới là đúng. Thực tế hiện nay đang tồn tại song song hai cách viết, và từ điển cũng ghi nhận cả hai:

-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê – Vielex): “sát nhập 插入 [sáp nhập nói trại] đg. xem sáp nhập”.

-Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên): “sát nhập • Biến âm của “Sáp nhập”.

          Tuy nhiên, xét nghĩa từ nguyên, thì viết “sáp nhập” mới chính xác. Bởi “sáp nhập” 插入 là từ ghép đẳng lập Hán Việt, trong đó “sáp” (âm khác là “tháp” trong “tháp tùng” 插從) có nghĩa là nhập, cắm, gắn, chen vào. 

    Trong tiếng Hán, chúng tôi không thấy từ điển ghi nhận sáp nhập với nghĩa các tổ chức, đơn vị hành chính nhập vào với nhau làm một. Đây có thể là từ Hán Việt Việt dụng (từ Việt gốc Hán được sử dụng với nghĩa không có trong tiếng Hán).

        “Sáp nhập” với nghĩa hiện hành đã được từ điển tiếng Việt ghi nhận trước 1945:

11 thg 10, 2020

SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT HÁN” (Kỳ 2B)

Sai sót bắt đầu từ bản in 
của NXB Khoa học XH-1999
          HOÀNG TUẤN CÔNG

Kỳ 2B: Thu thập nhiều dị bản thành ngữ tục ngữ Việt thiếu chính xác; nhiều dị bản không tồn tại trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán.

(Phần B)

35-“sợ run cầy sấy”.

Chính xác phải là “run như cầy sấy”, cho thêm “sợ” vào là thừa, trong khi lại thiếu “như” - một yếu tố rất đặc trưng trong kết cấu của thành ngữ biểu thị mức độ cao, sử dụng để so sánh với cái tiêu biểu được nêu ra sau đó.[K].

10 thg 10, 2020

NHIỀU SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT - HÁN” (Kỳ 2A)


           HOÀNG TUẤN CÔNG


Kỳ 2:
Thu thập nhiều dị bản thành ngữ tục ngữ Việt thiếu chính xác; nhiều dị bản không tồn tại trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán.

(Phần A)

Thành ngữ tục ngữ thường tồn tại nhiều dị bản. Bởi vậy, để lựa chọn được bản chính xác, người biên soạn từ điển cần dựa vào nhiều căn cứ. Ví dụ căn cứ vào từ điển, kho ngữ liệu hoặc công trình sưu tầm tuyển chọn có uy tín của người đi trước; căn cứ kết cấu, ngữ nghĩa của từng từ; căn cứ kiến văn nghe đọc trên sách báo và trong đời sống để xác định bản nào là bản chính. Trong đó, từ điển và kho ngữ liệu là hai nguồn tham khảo quan trọng nhất. Tuy nhiên, dường như nhiều khi tác giả Nguyễn Văn Khang (NVK) đã lựa chọn các bản thành ngữ tục ngữ đại diện cho cả hai phía ViệtHán theo cảm tính, huy động theo trí nhớ. Bởi vậy, “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt – Hán” thu thập nhiều dị bản không tiêu biểu, “dị bản lạ”, thiếu chính xác, không thấy bất cứ cuốn từ điển nào ghi nhận. Sau đây là một số dẫn chứng (Chúng tôi đánh số tiếp theo kì trước để tiện chú dẫn khi cần thiết. Với những mục chỉ sai ở phía thành ngữ tục ngữ Việt, thì chúng tôi lược bỏ phần đối chiếu với thành ngữ tục ngữ Hán. Nếu tất cả các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay đều không ghi nhận dị bản như NVK đưa ra, sẽ được đánh kí hiệu [K] cuối mỗi mục trao đổi):

9 thg 10, 2020

NHIỀU SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT - HÁN” CỦA NGUYỄN VĂN KHANG (Kỳ 1)

 
HOÀNG TUẤN CÔNG

Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán” (Nguyễn Văn Khang - NXB Văn hoá Sài Gòn – 2008), mục “Thay lời nói đầu” của sách cho biết: “cuốn từ điển này được xuất bản lần đầu vào năm 1999 với tên là “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt-Hoa” (NXB Khoa học Xã hội). Và lần xuất bản sau, tác giả “có chỉnh sửa và bổ sung nhất định. Chẳng hạn, về mặt hình thức có thay đổi sử dụng chữ Hán giản thể; về nội dung, có bổ sung thêm được một số thành ngữ, tục ngữ đối chiếu tương đương […] Là công cụ tiện lợi cho việc những người biên, phiên dịch, giao tiếp song ngữ Hoa – Việt và học tiếng Hoa, tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ…”.

4 thg 10, 2020

"NGU NHƯ BÒ" và "LỢN LIÊU ĐÔNG"


Minh hoạ thành ngữ "Liêu Đông thỉ"

       HOÀNG TUẤN CÔNG

 

Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán” (Nguyễn Văn Khang - NXB Văn hoá Sài Gòn – 2008), là cuốn từ điển đối chiếu những đơn vị thành ngữ và tục ngữ có nghĩa giống nhau trong tiếng Việt và tiếng Hán. Sách này cho rằng, thành ngữ “ngu như bò” và “ngu như lợn” trong tiếng Việt đồng nghĩa với 遼東之豕 (Liêu Đông chi thỉ) trong tiếng Hán. Tuy nhiên, đây là cặp thành ngữ Việt và Hán hoàn toàn không đồng nghĩa.

18 thg 9, 2020

CÂY CHÈ THANH HOÁ VÀ GIỐNG CHÈ NGON YÊN LƯỢC (Phần 2)

 

                     HOÀNG TUẤN PHỔ

Phía Tây - Tây Bắc huyện Thọ Xuân, một dải đất “Thọ Xuân ba miền”: Trung du, đồng bằng và đồng chiêm trũng. Đó là vùng đất “cao nguyên của Thọ Xuân”, hoang vu mà trù phú, người ta mệnh danh là địa linh nhân kiệt. Đặc biệt vùng “tiền tam Yên, hậu ngũ Phúc”: Yên Trung, Yên Trường, Yên Lược và Phúc Bồi, Phúc Lập, Phúc Địa, Phúc Cương, Phúc Xá, Phúc Tinh.

12 thg 9, 2020

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 27)

Phong cảnh làng quê xã Quảng Hoà
Ảnh: HTC

HOÀNG TUẤN PHỔ

Mẹ tôi gánh cói xuống chợ Nguyễn bán được lời gấp rưỡi tiền vốn, nhưng của một đồng công một nén. Vất vả quá! Các chuyến cói sau tôi cố gắng gánh 5 gù. Về đến Cung Bịch, bố tôi đi rước, kêu nặng, vai đau gối mỏi, ì ạch mãi từ nửa chiều đến chập tối mới về đến nhà. Ông đặt gánh cói xuống giữa sân, hai tay nắm lại đấm vai, đấm lưng, bảo hơi thở ra đằng tai phào phào! Mẹ tôi biết sức tôi yếu, vóc tôi gầy nhỏ, khó kham nổi cái nghề ăn no vác nặng, nhưng chưa biết tính toán đường làm ăn thế nào.

5 thg 9, 2020

CÂY CHÈ THANH HOÁ VÀ GIỐNG CHÈ NGON YÊN LƯỢC (Kỳ 1)


Trên đỉnh núi Các
Ảnh: phatgiaothanhhoa
     HOÀNG TUẤN PHỔ

Cây chè từ xa xưa mọc hoang ở nhiều nước thuộc vùng Đông Á. Người Trung Quốc và người Việt Nam biết dùng chè rất sớm để làm thuốc và thức uống hàng ngàn năm trước. Các tỉnh Bắc và Trung Việt Nam đều trồng chè. Nổi tiếng đất chè là Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Nam, Lâm Đồng...