HOÀNG TUẤN PHỔ
Cây chè hoang quen sống lang thang vô định nơi
sườn núi ven sông suối, đánh bạn với gió núi mây ngàn, bỗng chốc theo người “hạ
sơn” kết duyên cùng đất đồi Sánh – Lược. Ở đây mưa nắng thất thường, mùa hè có
khi nắng táp, mùa thu không ít mưa dầm. Về thổ nhưỡng cũng không đều, chỗ này
giàu kali, nơi kia lắm mùn hữu cơ feralitphat, nhưng đồi thấp nói chung dễ bị rửa
trôi như chỉ khoác trên mình tấm áo mỏng chịu sao nổi gió mưa. Phổ biến đồi thấp
Yên Lược kết vón đá ong ở tầng trên hoặc tầng dưới, phản ứng chua PH kali từ
10,0 – 5,2, hàm lượng mùn nghèo... như dãy đồi thấp tiếp nối Yên Trường, Phúc Bồi,
Phúc Địa...
Nói chung Thanh Hóa có nhiều giống chè, nổi tiếng nhất vẫn là
chè Yên Lược.
Chè Lược hay chè Sánh Lược, chè Yên Lược xuất xứ từ đâu?
Theo tài liệu đạo Gia Tô (Địa
chí Thọ Xuân), Vua Lê Thế tông nhà Lê Trung hưng có cô công chúa Mai Hoa
tên dân gian Ngọc Hoa được một giáo sĩ Tây Ban Nha đến vùng Yên Trường – Vạn
Lại truyền đạo, đã được làm lễ rửa tội và đặt tên thánh là Flora Maria Mai Hoa.
Mối tình dần dần nảy nở giữa Mai Hoa và giáo sĩ nhưng duyên trời không xe kết
vì luật lệ khắc nghiệt của giáo hội cấm cha cố không được lấy vợ. Công chúa Mai
Hoa thất tình, nguyện suốt đời không yêu ai, không lấy ai. Giáo sĩ Tây Ban Nha
khuyên Maria Mai Hoa tuyên truyền, vận động một số người nghèo lập nên xóm đạo
ở xã Phúc Lập hướng dẫn họ trồng cây chè trên miền đồi thấp Sánh – Lược. Vì thế
dân gian tôn gọi công chúa là Bà Chúa Chè.
Rất khó xác định sự tích Bà Chúa Chè đúng, sai thế nào, thật giả
đến đâu, chỉ biết rừng núi trung du nước ta, tỉnh ta vốn xưa không thiếu cây
chè mọc hoang, tên khoa học Camellia sinensis O. Kuntze thuộc họ chè. Giống chè
ấy gặp gỡ miền đồi Yên Lược, Thọ Xuân quả là “đôi ta duyên phận phải chiều, dây tơ hồng vấn vít, sợi chỉ điều khéo xe
săn...” như lời một bài hát chèo cổ (Duyên phận phải chiều). Chè Yên Lược
đầu tiên hái lá bán chợ Sánh, chợ Lược quê nhà, bên cạnh các thứ hàng hóa lâm
sản, thổ sản mang tính tự cung tự cấp. Rồi chè Sánh, chè Lược lên chợ Đầm,
xuống chợ Mía, đi chợ Bái Thượng, chợ Thịnh Mỹ... Sông Lương uốn khúc bên làng,
tạo thành bến bãi. Thuyền gỗ, thuyền nan, cả đò dọc đò ngang, qua lại, ngược
xuôi đưa người và hàng hóa giao thương, tạo điều kiện cho Sánh, Lược mở rộng
tầm mắt. Chè xanh đất An Lạc Châu xưa (gọi tắt là chè Lược) ngày nào cũng xuống
đồi đi khắp chợ gần đến chợ xa. Từ gà gáy, cô hàng chè đã kĩu kịt trên vai,
nhún nhảy đôi bồ, bàn chân họ vốn quen buôn vai gánh vã. Hình ảnh cô hàng chè
xanh Sánh Lược đi sớm về khuya in sâu trong lòng anh lái đò Lương Giang (sông
Chu) vừa chống vừa chèo cũng thức khuya dậy sớm. Tâm tình anh gửi vào tiếng hò
cao vút, theo sóng nước lan xa, lan xa:
- Một ngày mấy bận đò giang
Đêm nằm tơ tưởng o hàng chè xanh
- Một mình vừa chống vừa chèo
Lấy ai bẻ lái kéo lèo cho anh?
Tiếng hò đưa đẩy những cô hàng chè Yên Lược mang chè Lược đi xa
hơn, giục giã đất An Lạc Châu mở mang thêm diện tích, khai phá những vùng đồi
cổ tích: Mã Sặt, Nước Gáo, Chùa Mõ, Vườn Quan, Ông Điều... vốn xưa ngày ngày
kêu vang tiếng chim “gia gia”, nước tuy mất nhà vẫn còn, cây chè xanh không
chết, tụ họp về đây trên đồi Yên Lược, nhờ bàn tay người chăm sóc càng mượt mà
búp non lộc biếc. Những bàn tay lao động cần cù thô ráp mà khéo léo đưa ngón
tay nhanh thoăn thoắt vin cành hái lá, như gẩy đàn, bật lên thanh âm rì rào,
lách cách bản hợp tấu xanh mượt màu gió nắng, nghe vui tai lạ. Những bàn tay
đàn bà, con gái ban ngày hái chè, ban đêm sửa soạn hàng để gà gáy đưa hàng đi
chợ xa.
Những o hàng chè, áo nâu, váy phủ kín đầu gối, đôi dải thắt lưng
bỏ mối đằng trước đung đưa, gợi mở khiến anh trai đò nào cũng rung động. Làng
đồi, đất ruộng nhưng tấm áo vá chiêm khê mùa thối, cây chè đồi làm sáng bừng
lên sức sống mới. Cô gái làng đồi chín đỏ đôi má hồng cất giọng vang xa gọi đò.
Anh trai đò đang giấc say bật dậy, không biết giờ này nước sông Lương lên hay
xuống, có những lúc cây sào chống uốn cong như ngọn tre mà đò cứ nặng rì rì,
nhưng nghĩ đến o hàng chè làng đồi lại tăng sức mạnh, gò lưng tôm, lướt sóng
băng băng.
Cuối thế kỷ XIX, nghề buôn bán mở mang đưa bàn chân chai sạn
người Sánh Lược dần dần thoát cảnh buôn vai gánh vã. Thị xã Thanh Hóa thành
lập, chợ tỉnh Thanh mở ra, tiếng đồn quán xá đông vui, kẻ bán mua tấp nập, trăm
thức của ngon vật lạ, “chè xanh xuống biển, cá tươi lên ngàn”. Cô hàng chè Lược
mạnh bạo bước chân từ đồi Yên Lược xuống sạp thuyền ván đò dọc. Đò xuôi dòng
Lương Giang suốt đêm cùng tiếng hò hát “dô tả dô tà” điểm nhịp tiếng sóng vỗ ru
hồn người vào giấc ngủ chập chờn cánh bướm. Con thuyền ván khi giương buồm, lúc
chèo lái, rạng sáng đến bến Nam Ngạn, phải gánh bộ chỉ một quãng đường ngắn đến
chợ Tỉnh. O hàng chè ngồi nhờ bên góc lều hàng nước, đặt bồ hàng xuống, hạ
chiếc đòn gánh tre lên màu cánh nhán làm ghế. O mang sẵn giành to, giành nhỏ,
ai mua nhiều bán nhiều, mua ít bán ít, mua một vài xu lẻ cũng bốc. Những ngày
đầu bán mua thưa thớt, về sau khách đông dần, dân đồng bằng duyên hải, mới quen
mùi vị chè đồi Sánh Lược.
Đặc điểm chè xanh Yên Lược lá nhỏ, dày, sắc xanh tươi phơn phớt
màu vàng nhạt. Người bán hàng khéo tay đến kỳ lạ xếp lá dựng đứng trong bồ, khi
bốc ra không gẫy, không giập, ráo nước, để vài ba ngày vẫn tươi nguyên. Chè này
khi dùng, vò sơ hay nát, bỏ vào nước ấm đất, đun sôi, nếu không có thay bằng
nước máy, nồi nhôm cũng được. Rót nước ra bát to hay cốc lớn, khói thơm phức,
làn khói mỏng tang bay là là mặt nước, uống nóng, nhất là vừa thổi phù phù vừa
uống như húp cả khói sương vào miệng. Uống chè xanh nhiều thành nghiện, một thú
vui, phong vị làng quê.
Khi chè xanh Yên Lược dần dà quen khách, xa gần tín nhiệm, phong
vị hơn hẳn các loại chè quê khác, trở thành một thương hiệu “chè Lược”, chính
quyền cai trị thấy đây là mối lợi, phải thu thuế, nếu không thuế môn bài thì
thuế hàng chuyến. Ấy là chưa kể thuế lều quán, thuế chỗ ngồi, thuế quét chợ,
thuế vào cửa... Chè bán càng mạnh, mức thuế càng cao. Một bài phú dự thi đề tài
“Hội chợ Thanh Hóa” đã viết:
Đánh thuế chè mà sắc mặt cô hàng chè xanh xao,
Thúc thuế muối mà đầu tóc ông hàng muối bạc trắng!
Bài “Phú dự thi” được ban tổ chức chấm giải nhất nhưng không ai nhận
tên tác giả, vì sợ chính quyền Pháp cai trị theo dõi trả thù. Chính sách thuế
của họ nặng nề, co dãn như dây cao su có thể kéo dài vô tận trên tấm lưng trần
của người dân Việt.
Dù sao bà con Yên Lược vẫn phải phơi lưng trên đồi núi An Lạc
Châu và các o hàng chè đêm đêm vẫn theo tiếng hò đò dọc để sáng hôm sau có mặt
tại phiên chợ tỉnh cung cấp loại chè ngon cho khách hàng. Trong khi đó, người ở
nhà đội thúng đeo bế lên đồi, những đồi Gáo, Ông Điều, Mã Sặt... đã xa vời
tiếng kêu “gia gia”, để chiều về đủ chè cho người đi chợ xa.
Khi có thêm phương tiện giao thông máy móc, chè Lược lên nóc ô
tô, vào khoang tàu hỏa đi xa hơn chợ tỉnh Thanh để “trẩy” ra Nam Định, Hà Nội,
Hải Phòng... Cầu càng nhiều, cung phải càng tăng, chè Lược bước sang thời hoàng
kim với thương hiệu nổi tiếng “Chè Hương Lược” xứ Thanh.
Kháng chiến toàn quốc, máy bay địch bắn phá vùng hậu phương
Thanh Hóa, chợ búa di dời, trường học sơ tán, ô tô không còn đường, tàu hỏa
ngừng chạy, những thanh ray hóa thành đao kiếm, vũ khí giết giặc của dân quân
du kích... Bốn mươi ha chè cũng đứng xơ xác trên đồi Yên Lược vì không nơi tiêu
thụ. Tuy nhiên, không khí kháng chiến nhộn nhịp đông vui chưa từng thấy. Cán
bộ, bộ đội, học sinh, đồng bào tản cư, người khu 4 ra, khu 3 vào cứ đông nườm
nượp, Thanh Hóa trở thành nơi tập trung, những địa điểm Cầu Bố, Rừng Thông, Cầu
Quan, Hậu Hiền, Cầu Kè, Cốc Thuận... vẫn sống ngang nhiên dưới con mắt cú vọ,
những họng súng của tàu bay “bà già”... Hàng quán mọc lên tiêu thụ đáng kể
lượng chè xanh Yên Lược. Người An Lạc Châu sản xuất chè khô gói hình hộp vuông
vắn xinh xắn đẹp mắt in nhãn hiệu “Chè Hương Lược” để phục vụ bộ đội, cán bộ,
học sinh và nhiều đối tượng khác tiện bỏ ba lô, túi dết mang đi xa, hoặc ra
chiến trường, hoặc đi công tác...
Chè Hương Lược, ta ngửi bên ngoài đã thấy mùi thơm, pha nước vẫn
giữ sắc xanh xanh, mùi vị tỏa hương đặc trưung đầy hấp dẫn. Thời bấy giờ, nếu
ai đã từng được nhắp chén chè Hương Lược, nhấm nháp với chè Lam Phủ Quảng (Vĩnh
Lộc) chắc chắn suốt đời chẳng quên.
Thời kỳ xây dựng hòa bình, “ông hoàng Mía” lên ngôi thay thế “bà
chúa Chè” xanh đồi Yên Lược, bởi lợi nhuận kinh tế. Chúng ta được thưởng thức
nhiều loại chè từ hạ cấp đến thượng cấp, chủ yếu vẫn chế biến từ giống chè Thái
Nguyên, Hà Giang,... Gần đây xuất hiện nổi tiếng “Trà Ô Long” giống gốc từ nước
ngoài du nhập Tây Nguyên, Đà Lạt, rồi tiến công ồ ạt ra Bắc. Ở Trung Quốc thời
phong kiến đã nổi tiếng “Thập đại danh trà”. Những tên trà rất nổi tiếng này phần
nhiều đặt theo địa danh, một số mang câu chuyện lịch sử. Ở nước ta gần đây xuất hiện ngày càng nhiều trà “Ô Long”, trước
tiên là Ô Long Hoàng Mai, Ô Long Tâm Châu, sau xuất hiện hàng loạt các loại Ô
Long ướp hoa. Lại có cả Ô Long “nhúng” của Thái Nguyên... đều đóng hộp cứng,
công phu như Ô Long Hà Linh, Ô Long Mộc Châu,... chỉ riêng phần chất lượng, nếu
không kém cũng không được những người tiêu dùng đánh giá cao. Theo khẩu vị cá
nhân, sau thời gian thưởng thức các loại “danh trà” tôi cho trà Ô Long Tâm Châu
đáng gọi là “Danh trà Ô Long Việt” dẫu rằng khẩu vị chưa được đậm, so với đại
danh trà Thiết Quan Âm cũng tám lạng nửa cân thôi.
Sau thời gian chè Yên Lược vắng bóng nay có thể lại trở về đồi
thấp An Lạc Châu vì “ông Hoàng” không còn được hâm mộ như “xưa”, chúng ta cần
khôi phục thứ “đại danh” này với thương hiệu “Chè Hương Lược” của thời kháng
chiến trường kỳ...
Gần đây báo “Sức khỏe và Đời sống” của Bộ Y tế số 945 công bố
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới: Trong lá chè có hàng
nghìn hoạt chất hóa học tác dụng tốt cho sức khỏe và công dụng chữa bệnh cho
con người. Thành phần lá chè chứa tới 20% tanin có tác dụng làm săn da, sát
khuẩn mạnh. Ngoài ra còn chất caphêin (caféin) với tỷ lệ 1,5 – 5%, một số
vitamin B1, B2 và C. Chất tanin của chè có tác dụng như một vitamin P vì đây là
hỗn hợp của catechin cấu trúc hóa học của vitamin P... Đặc biệt hợp chất
catechin trong lá chè giúp ngăn ngừa và chữa lành các tổn thương da và cao có
thể giúp ngăn chặn các hóa chất và bức xạ gây ung thư da...
Hiện nay một số nước trên thế giới trồng chè để uống thay cà phê.
Hàng ngàn năm trước dân nước ta đã uống chè. Nhiều bài thuốc dân gian dùng chè
lá tươi hoặc sao khô cũng để chữa bệnh nhiễm khuẩn, vi trùng độc. Dân ta còn
nghiệm thấy uống chè Lược ngon và quý hơn các loại chè, thấy như được uống liều
thuốc bổ...
Tôi nghĩ: Từ
chè Thái Nguyên đã có thể chế biến ra nhiều loại chè, tại sao các giống chè
Thanh Hóa nổi danh như chè Yên Lược thơm, ngon, bổ, chúng ta lại không thể
“trình làng” những “chè” và “trà” như các loại Ô Long?
HTP/2020
Viết PH là sai. Chính xác là : pH. Tác giả sửa lại cho chính xác nhé.
Trả lờiXóaĐể định hướng được mỗi loại sản phẩm từ canh tác và chế biến, đòi hỏi lãnh đạo có tâm và có tầm, để người dân tự phát sẽ là sớm nắng chiều mưa, khó đạt thành công bác ạ.
Trả lờiXóa