31 thg 10, 2015

Chân dung "tham quan, ô lại" trong "Tình cát"

            
 HOÀNG TUẤN CÔNG


Nguyễn Quang Lập có biệt tài "ký họa" tính cách nhân vật. Điều đó đã được khẳng định qua các thể loại tạp văn, kịch bản phim, truyện ngắn... đặc sắc.  Với "Tình cát", ông vẫn còn nguyên trong tay cây cọ vẽ chân dung bằng ngôn ngữ tài tình. Đáng chú ý là gương mặt của các "tham quan, ô lại" đương thời.

29 thg 10, 2015

XEM "TÌNH CÁT" CỦA NGUYỄN QUANG LẬP

             
                         HOÀNG TUẤN CÔNG

Độc giả từng phát cuồng với những tạp văn đặc sắc của Nguyễn Quang Lập, có thể sẽ thất vọng khi đến với "Tình cát". Bởi "Tình cát" không dễ đọc như tạp văn. Tuy nhiên, nếu biết thưởng thức, "Tình cát" lại hay và hấp dẫn chính ở chỗ không dễ đọc đó.

            Không dễ, bởi người đọc phải động não trước một "Tình cát" có tính khái quát, biểu tượng, ẩn ý cao. Nếu chạy theo cốt truyện, có thể vô tình lướt qua hình ảnh con cú què bay qua liệng lại như nối hiện tại với quá khứ, cất tiếng kêu tựa tiếng nấc oan hồn người dân Xóm Cát. Hay tiếng đàn cò đêm đêm như than, như oán của ông Rúm...Tiếng chim "Đi...soạn cho hết" khắc khoải nhắc nhớ quá khứ đau thương... 

22 thg 10, 2015

BÀ CỜN XỨ NGHỆ RA THANH (Phần cuối)

Đền Cờn Ngoài-Quỳnh Lưu-Nghệ An.
               HOÀNG TUẤN PHỔ

Đền miếu của Tứ Vị Thánh Nương chủ yếu tập trung ở dải đất ven biển, nhất là những làng xã làm nghề cá, thường xuyên ra khơi đánh cá. Đền nào cũng to nhất tuỳ theo khả năng kinh tế địa phương, được gọi bằng cái tên đầy tôn kính: đền Thánh Cả.
          Đầu năm, làng xã tổ chức lễ hội cầu phúc, cầu ngư. Cầu phúc để mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, cầu ngư để sóng yên biển lặng, lắm cá nhiều tôm.

11 thg 10, 2015

BÀ CỜN XỨ NGHỆ RA THANH (Phần II)

Đền Tứ Vị Thánh Nương ở Hậu Lộc.

                                        Ảnh: trên Intetnet
             HOÀNG TUẤN PHỔ 


Xét việc phong tặng thần linh thời Lê đều theo một quy chế chung: tất cả các vị Âm thần từ Bà Trưng, Bà Triệu, phổ biến nhất là “phu nhân” (xưa chỉ vợ các vua chư hầu, hoặc vợ các quan nhất phẩm). “Phu nhân” cũng là tước hiệu vua phong các nữ thần bậc thượng đẳng. Ví dụ: Hai Bà Trưng được phong Trinh Linh nhị phu nhân, Bà Triệu được phong Trinh Nhất phu nhân. 

8 thg 10, 2015

BÀ CỜN XỨ NGHỆ RA THANH (phần I)

Đền Cờn

                                   Ảnh: Du lịch Nghệ An

          HOÀNG TUẤN PHỔ

Bà Cờn đóng “đô phủ” ở Càn Hải xứ Nghệ, quản lĩnh 12 cửa biển trong nước, theo sắc phong vua Trần. Các cửa biển quan yếu của Thanh Hoá: Hiếu Hiền (Ghép), Hội Trào (Hới) Y Bích (Sung) đều thuộc quyền Bà. Những nơi này đều xây dựng “hành cung” to lớn, hơn hẳn các đền miếu chung quanh, để đáp lại công lao của Hoàng hậu nhà Tống, nhưng lại gửi số phận vào nước Nam và hết lòng âm phù người Nam.

6 thg 10, 2015

“Đom” hay “đóm”?

Bệnh lòi đom có thể chữa khỏi bằng các vị thuốc Nam

                                               Ảnh: ST trên Internet

HOÀNG TUẤN CÔNG

Trong bài "Tục ngữ về ốm đau, chữa bệnh"(“Tạp Chí Nghiên cứu văn hóa”-Trường Đại học Văn hóa Hà Nội) của Hoàng Kim Ngọc có ghi nhận câu tục ngữ "Đóm cháy ăn ra, tim la ăn vào". (Hoàng Kim Ngọc nhấn mạnh-HTC).  “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương) đưa ra hai dị bản và giải thích rõ ràng: “Đóm ăn ra; tim la ăn vào: Đóm là thứ hay cháy theo hướng từ trong ra: tim la là chứng hay ăn theo hướng từ ngoài vào. Như: Đóm cháy ăn ra, tim la ăn vào.

4 thg 10, 2015

Địa danh một số làng biển Thanh Hóa-Kỳ 4-Làng Đồn Điền (Quảng Xương)

Đền thờ Thành hoàng làng Đồn Điền

Ảnh: báo Dân Trí
HOÀNG TUẤN PHỔ

Đồn Điền là loại hình kinh tế sở hữu nhà nước. Khi chế độ đồn điền bãi bỏ, sở đồn điền này là một trong số ít sở đồn điền trên miền Bắc lấy tên gọi chung của sở làm tên đặt riêng cho làng.

Năm 1470-1471 Lê Thánh tông thân chinh hỏi tội vua Chiêm, đại thắng trở về. Một cánh quân do Tô Chính Đạo và Uông Ngọc Châu chỉ huy, vua sai trở lại Thanh Hoá cùng binh lính làm đồn điền. Tô Chính Đạo giữ chức Đồn Điền Chánh sứ, Uông Ngọc Châu làm Phó sứ. Có lẽ ngoài việc mở mang đồn điền còn kiêm nhiệm vụ phòng thủ duyên hải nên mới chọn mảnh đất khô cằn ven biển Quảng Xương. Dân đồn điền bấy giờ chủ yếu là binh lính, bổ sung thêm một ít tù binh, và thành phần khác.