8 thg 10, 2015

BÀ CỜN XỨ NGHỆ RA THANH (phần I)

Đền Cờn

                                   Ảnh: Du lịch Nghệ An

          HOÀNG TUẤN PHỔ

Bà Cờn đóng “đô phủ” ở Càn Hải xứ Nghệ, quản lĩnh 12 cửa biển trong nước, theo sắc phong vua Trần. Các cửa biển quan yếu của Thanh Hoá: Hiếu Hiền (Ghép), Hội Trào (Hới) Y Bích (Sung) đều thuộc quyền Bà. Những nơi này đều xây dựng “hành cung” to lớn, hơn hẳn các đền miếu chung quanh, để đáp lại công lao của Hoàng hậu nhà Tống, nhưng lại gửi số phận vào nước Nam và hết lòng âm phù người Nam.

Đứng ở cửa biển, trông chừng phía Tây, Bà Cờn không thể không bị hấp dẫn đến say mê những dòng sông nổi tiếng: sông Yên, sông Mã, sông Lèn… dòng sông nào cũng mở ra mênh mông đôi bờ trù phú. Tuy nhiên, thế giới bao la non xanh nước biếc ấy đã là xứ sở của bao vị thần thánh, những tên tuổi lẫy lừng với đền đài, miếu mạo ngự chiếm khắp nơi: Tham Xung, Đông Hải, Ông Băng, Cao Sơn, Quý Minh, vv…Dĩ nhiền bà Cờn không thể quên nữ thần lừng danh đã từ trung du rừng núi Phố Cát- Thạch Thành xuống chiếm lĩnh đồng bằng, không loại trừ miền biển. Đó là công chúa Liễu Hạnh, con Ngọc hoàng Thượng đế giáng trần cứu nhân độ thế, được vua Lê sắc phong “Mẫu nghi thiên hạ” là một trong “tứ bất tử” nước Nam. Bà Liễu liên kết với Thượng Ngàn công chúa và Thuỷ Cung công chúa hợp thành bộ ba vùng vẫy núi sông, khuấy đảo cả đất trời. Hẳn vì thế, Bà Cờn đành dừng chân ở các huyện miền biển xứ Thanh: Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hoá, Quảng Sơn, Tĩnh Gia. Hiếm hoi một huyện đồng bằng Đông Sơn, Bà Cờn “lấn sân” được ba nơi, đã là cố gắng lắm! Tuy nhiên, tổng số đền miếu của Bà Cờn ở Thanh Hoá cũng đã lên tới con số 81, con số tuyệt đẹp của hai con số cực dương!

Danh sách hàng trăm nơi thờ Bà Cờn đều gọi là đền Tứ Vị và thần hiệu Bà phổ biến là “Đại Càn quốc gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương thượng đẳng thần”. Thế là, cứ tưởng chỉ có một Bà Cờn hoàng hậu vua Tống, hoá ra có những bốn Bà Cờn! Vậy bốn bà là những Bà nào? Hay vẫn chỉ có ba Bà?

Sách Địa chí văn hoá huyện Hoằng Hoá, PGS Ninh Viết Giao căn cứ Ngọc phả Đền Cờn, Quỳnh Lưu, Nghệ An, chép: “Hoàng hậu cùng hai cô con gái may sao bíu vào một mảnh ván. Sóng gió đã đưa ba mẹ con vào Cửa Cờn ở Quỳnh Lưu. Một nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa gần đó, buổi chiều đi dạo trên bãi cát ven biển thấy ba người đã thập tử nhất sinh, liều mình ra cứu. Sư đem ba mẹ con vào ở trong chùa và cho ăn tử tế. Được một thời gian ngắn, ba mẹ con lại sức, trở lại béo tốt, nhất là vẻ mặt của hoàng hậu, coi tuyệt đẹp. Sư động lòng trần tục, muốn tư thông. Bị hoàng hậu cự tuyệt, sư xấu hổ quá, gieo mình xuống sông tự tử. Hay tin, hoàng hậu than rằng: chúng ta nhờ sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà chết, sao nỡ yên tâm! Nói xong, hoàng hậu cũng nhảy xuống biển chết. Mất mẹ, hai cô con gái khóc thảm thiết, nghĩ rằng sống bơ vơ ở nơi đất khách quê người, không cha, không mẹ, không bà con, không nơi nương tựa, rồi buồn bã qúa, cũng nhảy xuống biển chết theo. Bốn người chết, thi thể nổi lên, một mùi thơm như lan quế toát ra, về sau rất linh thiêng, dân xã lập đền thờ làm thần, nên bà con quanh vùng gọi là Tứ vị.

“Đã rõ sự tích, Trần Anh Tông sai làm lễ kính tế. Ra đi mặt biển yên lặng, vua kéo thẳng quân đến Chà Bàn, thắng trận lớn. Khi trở về, vua hạ lệnh gia phong là “Quốc gia Nam hải Đại Càn Thánh Nương”, lại cho sửa đền thờ thêm khang trang rộng rãi”. Kết thúc, soạn giả khẳng định đền Cờn Nghệ An là đền thờ Tứ vị Thánh Nương (trang 755, 756, 757).

Theo nội dung tình tiết trên, ba mẹ con Hoàng hậu, cộng với nhà sư là bốn. Bốn người đều nhảy xuống biển chết, bốn thi thể trôi dạt vào bờ, dân thấy thiêng lập đền thờ cả bốn người gọi là Tứ vị, sau nhiều nơi khác cũng thờ, gọi là Tứ vị Đại Vương. Vua Trần sắc phong “Quốc gia Nam Hải Đại Càn Thánh Nương”. Như vậy chỉ có hoàng hậu hoặc hoàng hậu và hai cô gái được vua ban sắc phong, còn ông sư chắc là không, vì 1. Chữ “nương” không thể là đàn ông; 2. Ngọc phả không nói nhà sư có công tích gì. Như thế là tương đối hợp lý. Nói “tương đối” bởi đã không có công tích gì sao cũng được tôn thờ làm Đại vương? (Tứ Vị Đại Vương).

Tuy nhiên, Tứ Vị Thánh Nương mới là thần hiệu phổ biến nhất, có thể nói ở hầu khắp các đền, miếu trên miền Bắc. Do đó, vấn đề ba Bà hay bốn Bà vẫn chưa được giải đáp. đến Tứ Vị Thánh Nương làng Triều Dương gần cửa Hới – sông Mã (Sầm Sơn, Thanh Hoá) lưu giữ một bản Ngọc phả và một tờ sắc phong. Bản Ngọc phả là bản sao, truyền rằng đời Tự Đức thứ 30, làng sao lại từ bản Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn đời Hồng Đức thứ 15. Tờ sắc phong cũng là bản sao chép, ghi niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên thất nguyệt nhị thập tứ nhật (Cảnh Hưng năm đầu, tháng 7 ngày 24 năm 1740). Hai tài liệu này chất lượng văn bản tuy không cao, nhưng dù sao cũng cho chúng ta một số thông tin cần thiết. Ngọc phả và sắc phong đều viết thống nhất Tứ Vị Thánh Nương. Riêng Ngọc phả ghi rõ tính danh: Hoàng hậu là Đại Hồng nương, con quan Ngự sử Triệu Đàn và vợ là Trương Thị Việt. Đại Hồng nương được thái tử Độ Tôn vời vào cung phong làm Đệ nhất phu nhân. Ba năm sau, Đại Hồng nương đẻ sinh đôi hai gái, đặt tên chị là Hồng Mai nương, em là Hồng Hạnh nương. Thái tử Độ Tôn được truyền ngôi vua, nhà Tống phong Đại Hồng nương làm hoàng hậu. Đại Hồng nương tuyển một người con gái tên là Tiểu Muội để vừa làm nữ tỳ hầu hạ hai công chúa, vừa làm thầy dạy hai công chúa. Vua Tống Độ Tôn mất, truyền ngôi cho con thứ Trung Tôn, Trung Tôn mất truyền ngôi cho anh cả Đoan Tôn.

Bấy giờ nhà Nguyên xâm lấn, Đoan Tôn đánh thua, mất tại Cương Châu, quyền ngôi vua trao cho Đại Hồng nương làm Dương Thái hậu. Được một năm, tức năm Kỷ Mão (?), quân Tống bị đại bại ở Lộc Tụ, Dương Thái hậu cùng hai công chúa và người hầu gieo mình xuống biển chết, xác trôi dạt sang nước Nam, sóng đưa vào Thanh Châu (Thanh Hoá) được vị thiền sư chùa Long Khánh đưa về chùa cứu chữa. Thiền sư cho bốn người ra ở ngoài cửa chùa tại một nơi xa, sai lo việc cơm cháo, phục vụ các nhà sư. Một đêm, bốn người ngủ quên không mang cháo vào cho các sư ăn sau buổi tụng kinh khuya, thiền sư ra xem thấy cả bốn người đang nằm ngổn ngang, bèn bước qua Dương Thái hậu. Không ngờ thái hậu từ đó mang thai. Thiền sư biết chuyện, rất lấy làm giận mình bỗng dưng mua tiếng xấu với đời, không có cách nào thanh minh, đành viết di chúc gửi lại, rồi nhảy xuống biển. Trong khi đó bốn người phụ nữ khó giải nỗi oan tình cũng nhảy xuống biển chết, xác trôi vào cửa Cần Hải. Hôm ấy là ngày 13 tháng 3, trời đất tự nhiên tối tăm mù mịt, mọi người đều kinh hãi. Thi thể ba mẹ con và cô hầu được các loài vật đêm đất cát đắp thành ngôi mộ lớn ở giữa sông. Quan địa phương thấy chuyện lạ, làm tờ trình tấu lên vua Trần Nhân Tông. Nhà vua thấy có sự linh ứng bèn gia phong Thượng đẳng phúc thần, sau thêm thần hiệu Đại Càn quốc gia Nam Hải trấn ngự 12 cửa biển. Bốn vị Hồng thánh nương: Đại Hồng nương (hoặc Hồng Đại nương), Hồng Mai nương (công chúa chị), Hồng Hạnh nương (công chúa em) và Hồng Muội (hoặc Tỷ nương) – người hầu gái được sắc lệnh cho dân địa phương các cửa biển lập đền thờ phụng sự.

Thế là vấn đề xem như đã rõ. Nhưng không! Tài liệu các đền Tứ Vị Thánh Nương ở làng Thiên Hậu (Yên Mô, Ninh Bình), làng Thiện Đăng (Vụ Bản, Nam Định), làng Hương Nại (Yên Mô, Ninh Bình), làng Thụ Ích (Nghĩa Hưng, Nam Định), làng Lạc Chính (Trực Ninh, Nam Định), làng Phúc Lai (Yên Mô, Ninh Bình), làng Vân Châu (Kim Bảng, Hà Nam), làng Đông Lạc (Nam Trực, Nam Định) được soạn giả Lê Xuân Quang trong sách Thần tích Việt Nam tập II (Nxb Thanh Niên) lại cho biết: Tứ Vị Thánh Nương là hoàng hậu họ Dương và ba cung phi xác trôi vào cửa Càn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, nhan sắc vẫn xinh tươi như người còn sống. Dân xã Hương Cần chôn cất và lập đền thờ (tr.180-186). Ba cung phi ấy tên là gì? Lê Xuân Quang không nói rõ. Chắn hẳn ông không còn cứ liệu nào khác.
Lễ hội đền Cờn ở Nghệ An

                                            Ảnh: Du Lịch Nghệ An

Thực ra, các tài liệu trên chỉ là tài liệu ngọn. Vậy tài liệu gốc ở đâu? Đó là sách Việt điện u linh, Lý Tế Xuyên khởi soạn. Nguyễn Văn Chất tục biên. Theo khảo cứu của Giáo sư Đinh Gia Khánh: Lý Tế Xuyên viết Việt điện u linh hồi đầu thế kỷ thứ XIV, sang thế kỷ thứ XV, Nguyễn Văn Chất làm việc tục biên. Phần tục biên của Nguyễn Văn Chất có các truyện Sóc Thiên vương, Thanh Sơn đại vương, Càn Hải môn từ (Riêng Quản Gia Đô Bác đại vương chỉ thấy ở dị bản A. 47 và A. 1919). Sự tích Càn hải môn từ tức đền cửa Càn Hải, được dịch như sau:
Phu nhân họ Triệu là công chúa nước Nam Tống, tất cả có ba mẹ con, phu nhân là con gái út.
Trong năm Thiệu Bảo thứ nhất (1279) đời Trần Nhân Tông, bên Trung Quốc, Trương Hoằng Phạm đem binh đánh úp quân Tống ở Nhai Sơn. Quân Tống bị tan vỡ, quan Tả thừa tướng là Lục Tú Phu ôm vua Đế Bính cùng nhảy xuống bể, tướng sĩ nhà Tống chết xuống bể có tới hơn 10 vạn người. Ba mẹ con phu nhân ôm lấy cột buồm một chiếc thuyền, trôi dạt đến một cái chùa bên bờ bể. Sư chùa thương bèn cho mẹ con vào ở chùa và nuôi cho ăn. Được mấy tháng, mẹ con khi đã lại sức, trở nên béo tốt, vẻ mặt phu nhân coi tuyệt đẹp. Sư động lòng muốn tư thông, bị phu nhân cự tuyệt. Sư xấu hổ quá, gieo mình xuống bể chết. Mẹ con phu nhân cùng khóc rằng: “Chúng ta vì sư mà được sống, nay sư vì chúng ta mà chết, sao nỡ yên tâm”. Rồi ba mẹ con cùng đâm đầu xuống bể chết cả, xác trôi đến cửa Càn Hải thuộc huyện Quỳnh Lưu, phũ Diễn Châu nước ta, vẻ mặt vẫn tươi tỉnh như lúc còn sống. Thổ dân lấy làm lạ, vớt lên táng, thấy rất hiển linh mới lập đền thờ. Phàm những thuyền đi bể, gặp khi sóng to nguy hiểm, kêu cầu đều được thoát nạn. Sau các cửa biển đều lập đền thờ, đền nào cũng có tiếng linh thiêng” (Trịnh Đình Rư dịch).

Căn cứ tư liệu xưa để lại do Nguyễn Văn Chất viết nối vào Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên khởi thảo, chúng ta thấy bản thần tích đền Cờn, Quỳnh Lưu cổ nhất. Nguyễn Văn Chất từng giữ chức Quốc Tử Giám đồng tu sử, sau thăng Hộ Bộ Thượng thư (giữa thế kỷ XV) có thời gian làm Tham chính Nghệ An hẳn biết rõ đền Cờn lai lịch, nguồn gốc thế nào. Sau Nguyễn Văn Chất, một số soạn giả khác tiếp tục “tục bổ”, “tăng bổ”… những văn bản đáng tin cậy nhất đều chỉ là chép lại bản Nguyễn Văn Chất.

Sách Lĩnh Nam chích quái, theo GS Đinh Gia Khánh, bản còn truyền đến ngày nay do Vũ Quỳnh, Kiều Phú (thế kỷ XV) cùng thời với Nguyễn Văn Chất, sưu tập. Cũng theo GS Đinh Gia Khánh, truyện Càn Hải tam vị phu nhân (tức Càn Hải môn từ) là một trong trên dưới hai chục truyện của Việt Điện u linh được người sưu tầm chép sang các bản Lĩnh Nam chích quái khác nhau. GS Đinh Gia Khánh dẫn ra 9 bản Lĩnh Nam chích quái, và chúng ta nhận thấy một điểm chung là tên Càn Hải môn từ được sửa đổi chỉ định cụ thể đây là truyện về Ba vị phu nhân được thờ ở dền Càn Hải: Càn Hải tam vị phu nhân truyện (A.2914) (A.1752) (A.1300), (A.1200) (VHv1473), (VHv1266). Chỉ có hai bản chép là Càn Hải thần truyện (A.2107), (A.750), nhưng nội dung vẫn nói về ba vị thần, ba mẹ con vợ vua Tống.
Vậy thần hiệu “Tứ Vị Thánh Nương” xuất hiện từ bao giờ?
                                                                                (Hết phần I)

                                                                                                         HTP/12/5/2009
Chú thích:
(1) -Kinh bát nhà nghĩa rất sâu xa. Ở đây chỉ lấy ý ngoài của ngôn từ để “tán” về trình độ giáo lý nông cạn của nhà sư
Bài viết vốn là Tham luận Hội thảo về Bà Cờn do tỉnh Nghệ An tổ chức.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét