Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngôn ngữ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngôn ngữ. Hiển thị tất cả bài đăng

9 thg 1, 2016

"KÍNH" TRONG "CỔ KÍNH" NGHĨA LÀ GÌ?

Thư pháp của Tiếu Chi Nguyễn Hữu Sử

                                                 Nguồn: FB Sử Nguyễn

              Hoàng Tuấn Công

Trong tiếng Việt, "cổ kính" là từ khá thông dụng. Tuy nhiên, việc giải nghĩa từ, từ tố của "cổ kính" trong các sách từ điển tiếng Việt còn thiếu thống nhất.

          Từ điển tiếng Việt (New Era) giải thích: "Cổ kính: Cổ xưa và đáng kính Những truyền thống cổ kính của dân tộc."

Từ điển từ và ngữ Hán Việt (GS Nguyễn Lân): "Cổ kính (cổ: xưa cũ; kính: tôn trọng) Lâu đời rồi, nhưng còn đáng tôn trọng: Những công trình kiến trúc cổ kính của ông cha để lại."

19 thg 7, 2015

KẺ ĂN RƯƠI, NGƯỜI CHỊU BÃO

Vớt rươi
Ảnh:ST
Hoàng Tuấn Công

Tục ngữ có câu "Kẻ ăn rươi, người chịu bão". Câu này thuộc loại khá phổ thông. Các nhà biên soạn từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam giải thích:
-"Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam"[1] (Vũ Dung-Vũ Thúy Anh-Vũ Quang Hào): "Kẻ ăn rươi, người chịu bão (bão: đau bụng bão, đau bụng gió) xem. Kẻ ăn ốc người đổ vỏ: [Kẻ ăn mắm, người khát nước]. Người không được hưởng lại phải gánh hậu quả tai hại do người được hưởng gây ra.”

26 thg 1, 2015

Tại sao lại “ĐÓI GIỖ CHA, NO BA NGÀY TẾT”?

HOÀNG TUẤN CÔNG

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Đói giỗ cha, no ba ngày Tết”. Cái ý “No ba ngày Tết” thì hầu như ai cũng hiểu. Tuy nhiên vấn đề khó hiểu và gây tranh cãi tại sao lại “đói giỗ cha” hoặc “đói ngày giỗ cha”?

5 thg 4, 2014

SAO LẠI GỌI CẦU BỐ, RỪNG THÔNG ?

                   Hoàng Tuấn Công
         
Người Thanh Hóa đi học tập, công tác hoặc làm ăn xa, có lẽ chẳng mấy ai không từng được nghe một vài câu ca, bài vè về quê hương mình. Đại loại như "Ăn rau má phá đường tàu" hay "Dân xà lách dây" (ám chỉ rau má) ! "Khu Bốn đẩy ra, Khu Ba đẩy vào..." Ngày còn đi học, bạn bè Hà Nội cũng hay ngâm nga mấy câu trên để trêu tôi. Tôi chỉ cười, không giận. Xem như bạn quý mình mà đùa vậy thôi.

2 thg 4, 2014

NHÂN TÌNH và TÌNH NHÂN

                                                   Hoàng Tuấn Công

Nhân tình và tình nhân là hai từ Việt gốc Hán có hai nghĩa khác nhau. Nhân tình人情 = tình người; tình cảm giữa người với người; lòng dân, tình hình dân chúng; còn tình nhân 情人 = người tình; người yêu.

Tuy nhiên, thực tế sử dụng hai từ này trong tiếng Việt lại khá rắc rối. Nhiều người dùng đúng, nhưng cũng không ít người nhầm lẫn, đánh đồng, hoặc không phân biệt rõ ràng giữa hai từ nhân tình và tình nhân.

Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) ghi nhận cách dùng trong thực tế như sau:

tình nhân = “người yêu. “Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ, mấy phân chung tình!” (TKiều)”.

- nhân tình = “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy. có nhân tình ~ bỏ nhà theo nhân tình”.

- “tình nhân như nhân tình “…vợ ông phán mọc sừng đang bù khú với tình nhân ở phòng bên cạnh…” (Vũ Trọng Phụng).

Cách dùng tùy tiện hai từ nhân tình và tình nhân không chỉ tồn tại trong đời sống ngôn ngữ đại chúng, mà còn in dấu ấn vào chữ nghĩa của cả những người cầm bút chuyên nghiệp. Mở đầu bài thơ Ghen, Nguyễn Bính Viết: 

“Cô nhân tình bé của tôi ơi,

Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười.

Những lúc có tôi, và mắt chỉ,

Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi…”

Nếu hiểu nhân tình = “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy”, như Từ điển của Hoàng Phê giảng, thì “Cô nhân tình bé của tôi ơi”, trong thơ Nguyễn Bính hẳn là một phụ nữ ngoại tình, một kẻ đáng chê. Trong khi vào nội dung bài thơ, thì “cô nhân tình” này là một cô người yêu có vẻ đẹp và tất cả sự trong trắng, khiến nhà thơ phải ghen” đến mức muốn giữ tất cả cho riêng mình:

 “…Tôi muốn những đêm đông giá lạnh,

 Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô,

Bằng không tôi muốn cô đừng gặp,

Một trẻ trai nào trong giấc mơ...”

Như vậy, nếu đây là văn bản đáng tin cậy, thì Nguyễn Bính đã dùng từ nhân tình với nghĩa không chuẩn xác.

Với Vũ Trọng Phụng thì khi viết “…vợ ông phán mọc sừng đang bù khú với tình nhân ở phòng bên cạnh…”, ông đã dùng đúng hai chữ tình nhân (người tình) theo nghĩa và cú pháp của một từ Việt gốc Hán. Trong khi nhân tình mà từ điển của Hoàng Phê đã giảng “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy”, thực chất (hoặc có thể) là cách diễn dịch hai chữ nhân tình theo cú pháp tiếng Việt thành người tình.

Trong tiếng Hán, nhân tình được Hán ngữ đại từ điển giảng tới 8 nghĩa, như: 1.tình cảm của con người (hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục); 2. Tình thường của con người; 3. Lòng người, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng; 4. Tình thân giữa người và người; 5. Dân tình; phong tục dân gian; 6. Tình bạn bè với nhau, v.v…Không thấy nhân tình có nghĩa nào chỉ người tình, người yêu. Trong khi tình nhân 情人 được Hán ngữ đại từ điển giảng hai nghĩa là: người yêu, bạn thân.

Đáng chú ý, con đường đưa hai chữ nhân tình trở thành tình nhân-người tình đã được Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức - 1931) ghi nhận: nhân tình 人情 • Tình của người ta <> Nhân-tình phản-phúc. Dùng sang tiếng Nam có nghĩa là người có tình-ái riêng với nhau hay là lòng tư-túi nhận của đút lót <> Đem tiền cho nhân-tình. Người kia bị kiện, nhưng đã có nhân-tình với quan.”.

Vậy, khi dùng đúng, nhân tình  tình nhân có những nghĩa nào? Xin liệt kê một số nghĩa chính sau đây:

1-NHÂN TÌNH:

-Tình người: Thành ngữ Hán Việt có câu Nhân tình thế thái (hoặc Thế thái nhân tình) có nghĩa là tình người, thói đời. Cụ Tú Xương khi nói về tình người bạc bẽo đã viết: Đ.mẹ nhân tình đã biết rồi/Lạt như nước ốc bạc như vôi; Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo/Nhân tình bạc thế lại bôi vôi. Hay Trước đèn xem truyện Tây minh/Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le (Lục Vân Tiên). Ở đây, từ nhân tình đã được dùng chính xác với nghĩa là tình người, lòng người.

-Dân tình: Phong tục tập quán, sinh hoạt của dân chúng; lòng dân, nguyện vọng của dân chúng (nghĩa cổ). Ví dụ “Chuyến đi sang Pháp này, Trương Vĩnh Ký cũng thu thập, học hỏi được nhiều điều: “Vĩnh Ký trong 9 tháng giúp theo Sứ sự, đều đặng hoàn toàn; nhơn đó mà lại được quan sát nhơn tình, phong tục, châu lưu thành quách sơn xuyên…” (Trương Vĩnh Ký hành trạng – Đặng Thúc Liêng).

-Người tình: Người có quan hệ bất chính, khi cả hai (hoặc một trong hai) đang có vợ, có chồng. Ví dụ Ông ấy bắt nhân tình với một cô đang còn trẻ lắm, hoặc Ông ấy có nhân tình nhân ngãi với một bà goá chồng.

Lưu ý, nhân tình với nghĩa người tình, người yêu trong quan hệ luyến ái, yêu đương chân chính (như cách dùng của Nguyễn Bính trong bài thơ Ghen) hầu như không được dùng trong thực tế.

2-TÌNH NHÂN:

-Người tình: người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy.

-Người yêu: người có quan hệ tình cảm thắm thiết, có ý muốn chung sống và gắn bó cuộc đời với một người nào đó (thường chỉ trai chưa vợ, gái chưa chồng). Đây cũng chính là nghĩa của hai chữ tình nhân trong câu thành ngữ Hán Tình nhân nhãn lý xuất Tây Thi - 情人眼裏出西施, nghĩa là: Trong mắt người yêu, cô gái hiện ra với vẻ đẹp của nàng Tây Thi.

Như vậy, tình nhân (người yêu) không đồng nghĩa với nhân tình (tình người; bồ bịch). Thế nên, người ta gọi Ngày lễ tình nhân chứ không ai gọi Ngày lễ nhân tình!

Hoàng Tuấn Công

21 thg 10, 2013

THỔ ÂM THỔ NGỮ THANH HÓA


                                                    HOÀNG TUẤN PHỔ

Thanh Hóa là một vùng văn hóa, trong đó ngôn ngữ người Việt, thành phần dân tộc chủ thể rất giàu sắc thái địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và sâu sắc.
 
Cây trôi ở làng Văn Đoài-Quảng Hòa-Quảng Xương-Thanh Hóa
                     Ảnh:Tuấn Công

 Sách “Địa chí văn hóa xã hội Thanh Hóa” cũng chỉ dành cho “lời ăn tiếng nói” người xứ Thanh số trang ít ỏi với nội dung sơ sài. Các sách Địa chí huyện Hà Trung, Địa chí huyện Thọ Xuân, chú ý đề cập vấn đề “thổ âm - thổ ngữ”, nêu rõ sắc thái địa phương, tuy nhiên chỉ giới hạn phạm vi trong huyện.

12 thg 9, 2013

TỪ HÁN VIỆT, TỪ THUẦN VIỆT CÓ THỂ VÀ KHÔNG THỂ

                 HOÀNG TUẤN CÔNG
Ông Đồ và học trò xưa
Trên báo Văn Nghệ (Hội nhà văn Việt Nam) số 22 ngày 31-5-2008, mục “Nói chuyện chữ nghĩa” có bài “Thay từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt” của Phan Điển Ánh. Tác giả đưa ra một số  trường hợp cho rằng không thể thay thế và có thể thay thế từ Hán-Việt bằng từ thuần Việt. Xin có đôi lời trao đổi: