13 thg 10, 2018

CÁCH VẬN DỤNG TỪ NGỮ, THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ CỦA GS. NGUYỄN LÂN (P5)

Cánh chim lạc đàn.
               Ảnh: mapio.net

HOÀNG TUẤN CÔNG

(Trích tiểu mục 7 mới bổ sung trong bản 2018 [tổng 27 trang], thuộc mục “Tiếng mẹ đẻ”.)

onhư ăn phải ớt • tt. Đắng cay mà không dám nói ra <> Quá tin người nên bị lừa, như ăn phải ớt”.
Nếu không ăn được ớt, mà lại lỡ ăn phải ớt thì cay lắm, cứ gọi là xuýt xoa, sặc sụa, giàn giụa nước mắt. Không ai cấm, cũng không ai nén chịu, giấu giếm làm gì. Bởi vậy, chẳng có lí do gì lại đặt ra thành ngữ “như ăn phải ớt” rồi giảng giải là “đắng cay mà không dám nói ra”.

6 thg 10, 2018

DỐT ĐẶC CÁN MAI



"Dốt đặc cán mai". 
Tranh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

Một số nhà nghiên cứu và biên soạn từ điển (Vũ Dung, GS. Nguyễn Lân, Văn Tân…) lại thu thập và giải thích thêm các dị bản “Dốt đặc cán thuổng”, hay “Đặc cán thuổng”. Theo đây, “Dốt đặc cán mai” có vẻ như là cách nói tuỳ tiện của dân gian. Nghĩa là “đặc cán mai”, cũng giống như “đặc cán thuổng”, hay thậm chí là “đặc cán cuốc” mà thôi[1].