Hoàng Tuấn Công
Minh họa đóa trà mi của PTHT, trong đó có một cánh hoa biểu tượng cho "âm hộ" nàng Kiều. |
Trên tạp chí “Ngôn ngữ”-Viện ngôn ngữ học số 11-2007 (hiện đăng trên ngonngu.net và se.ctu.edu.vn) có bài “Những liên tưởng ngữ nghĩa của từ hoa trong Truyện Kiều-Nguyễn Du” của Phan Thị Huyền Trang. Bài viết đã táo bạo mở ra hướng tiếp cận, khám phá cái mới trong vườn hoa ngôn ngữ của Truyện Kiều-mảnh vườn mà nhiều nhà “Kiều học”, nhiều “tín đồ” của ngôi đền thơ “Đoạn trường tân thanh” đã cày xới, chăm sóc rất kỹ ngót mấy trăm năm qua.
Theo Phan Thị Huyền
Trang thì “dưới cách tiếp cận
ngôn ngữ-văn hoá, bài viết này sẽ đi sâu phân tích, lý giải sự lan toả ý nghĩa
của từ hoa từ tâm ra ngoại vi, cũng như sợi dây
gắn kết về ngữ nghĩa từ ngoại vi hướng về tâm”.
Sau khi phải mệt mỏi bơi theo dòng “trường giang ngôn ngữ” của 10 trang viết với những tầm chương trích cú, lý luận kinh viện, cái mới mà độc giả được tiếp cận lại chính là sự tận cùng dung tục, thô lỗ hoá Truyện Kiều của tác giả Phan Thị Huyền Trang:
Sau khi phải mệt mỏi bơi theo dòng “trường giang ngôn ngữ” của 10 trang viết với những tầm chương trích cú, lý luận kinh viện, cái mới mà độc giả được tiếp cận lại chính là sự tận cùng dung tục, thô lỗ hoá Truyện Kiều của tác giả Phan Thị Huyền Trang:
1. “ Cái hay thì không mới...”:
Phan Thị Huyền
Trang đưa ra 5 nghĩa của từ “hoa” mà Đào Duy Anh đã giải thích trong Truyện
Kiều và chỉ ra cái hạn chế
của học giả Đào Duy Anh: “do
cách tiếp cận thiên về từ vựng-ngữ nghĩa của một người làm từ điển, tác giả Đào
Duy Anh chỉ nhấn mạnh đến các ý nghĩa cơ bản được cố định hoá của từ hoa, những
ý nghĩa giúp cho nó có chỗ đứng trong hệ thống. Còn các tầng nghĩa biểu trưng,
các sắc thái biểu cảm cũng như sự lan toả ngữ nghĩa tinh tế-cái tạo nên linh
hồn ngữ nghĩa của từ hoa lại chỉ được nhắc đến một cách sơ sài : “thường dùng
để tỉ dụ người đẹp, sắc đẹp, tình yêu...Vì vậy, chúng tôi đặt ra cho mình nhiệm
vụ là: cần phải soi sáng đặc điểm ngữ nghĩa của từ hoa dưới một góc độ khác,
góc độ ngôn ngữ -văn hoá”.
Vậy, dưới “góc độ ngôn ngữ văn hoá” Phan Thị Huyền Trang đã “soi sáng” được những gì?
Chúng ta đều biết, phong, hoa, tuyết, nguyệt,...là
những hình ảnh rất quen thuộc, phổ biến trong thơ ca xưa. Riêng hình tượng bông
hoa được so sánh, ẩn dụ với sắc đẹp, thân phận người phụ nữ đã trở nên
quá quen thuộc, cả trong văn học viết, văn học dân gian, lẫn ngôn ngữ thường
ngày như: mặt hoa da phấn,
tươi như hoa, đẹp như hoa, như hoa mới nở, như hoa sắp tàn, như hoa sớm nở tối
tàn, như cánh hoa bị vùi dập, gót hoa, trướng hoa, thềm hoa v.v...Hoa trở
thành ý nghĩa tượng trưng cho cái đẹp, sự cao sang, trong sáng và muôn hình vạn
trạng trong cách ví von, ẩn dụ khác. Bởi vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi
trong số hơn ba ngàn câu Kiều, Phan Thị Huyền Trang đã dày công đếm được tất
thẩy 133 lần xuất hiện từ hoa với nhiều ý nghĩa khác nhau. Phan Thị
Huyền Trang nên hiểu rằng, phần nhiều thơ ca xưa đều vận dụng lối “tỉ dụ” để
giãi bày, sáng tác. Do đó, lấy hình tượng hoa để biểu thị nét mặt, tâm trạng, thân phận, tình
yêu... không phải điểm đặc
biệt, duy nhất của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều. Thậm chí, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du mới chỉ vận dụng một phần nhỏ
ý nghĩa ẩn dụ của hoa trong vô vàn cách nói của dân gian. Câu ca dao: Em như một đoá hoa nhài. Canh khuya
hé nở chờ ai bên tường, hoa
nhài ở đây là hình ảnh một
người con gái đáng chê. Nhưng câu ví Như
bông hoa nhài cắm bãi cứt trâu, hoa
nhài lại là một thân
phận vừa đáng chê lại vừa đáng thương, đáng tiếc. Hay câu Thân em như hạt mưa sa, Hạt rơi
xuống giếng, hạt vào vườn hoa, hoa ở đây chỉ nơi chốn cao sang, sung
sướng, hạnh phúc. Câu thành ngữ “Mãn nguyệt khai hoa” hoa ở đây lại chỉ sự sinh nở v.v và v.v...
Với văn học viết, chỉ xin lấy “Chinh phụ ngâm” (bản diễn ca cũng như nguyên
tác) làm ví dụ. Mặc dù nhân vật chính không phải là thân phận bông hoa bị dập vùi,
trôi nổi như Kiều, nhưng, hình tượng hoa với lối so sánh ẩn dụ vẫn xuất
hiện rất nhiều trong tác phẩm thơ cổ này:
“Rượu cùng hoa rắp tã đàm
Sầu làm rượu lạt, muộn làm hoa ôi”
Hay:
“Ngừng nhan sắc đương chừng hoa nở
...
Đôi hoa cùng nở đôi cây cùng liền...
Thậm chí từ hoa còn khá “đậm đặc”:
“Hướng dương lòng thiếp như hoa
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng vì tại bóng
dương
Hoa vàng, hoa rụng quanh tường
Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần”(1)
Không bằng lòng
dừng lại ở cách giải thích của học giả Đào Duy Anh, Phan Thị Huyền Trang đưa ra
một số đề mục rất “mùi mẫn” như: “1.Hoa-hiện
thân của sự sống, 2. Hoa-thiên đường của mặt đất, 3.Hoa phút giây thoáng chốc,
4.Hoa-thực thể thụ động”,v.v...với những dòng phân tích, tán thưởng về hoa
“tràng giang đại hải”. Tất cả những điều đó đã được học giả Đào Duy Anh giải
thích khái quát, đầy đủ trong Từ
điển Truyện Kiều, và loài
người, mọi người đã nói cách đây cả...ngàn năm, trăm năm rồi.
Vẫn là những ngộ
nhận, Phan Thị Huyền Trang viết: “Hoa
thường được gán cho thiên tính nữ nên người ta thường liên tưởng với người con
gái đẹp. Nhưng tài tình của Nguyễn Du là ở chỗ trong Truyện Kiều ta còn thấy
đối tượng hoa ngầm chỉ không phải thuộc phái đẹp mà còn có thể thuộc phái “mày
râu”:
Nàng rằng khoảng
vắng đêm trường
442.Vì hoa nên phải
đánh đường tìm hoa
Thật bất ngờ
đối với người đọc và cơ chế liên tưởng ở đây dường như đã đi ra ngoài khung
liên tưởng thông thường. Có thể hình dung ra mô hình liên tưởng như sau:
Hoaà tình yêu, tình cảm đẹp, cao quý à người yêu, đối tượng có tình cảm đẹp ấy à Kim Trọng, đối tượng cụ thể”.
Thực ra, những liên
tưởng ấy về từ hoa trong câu thơ đã nằm trong cách giải thích thứ nhất về hoa
của Đào Duy Anh mà chính Phan Thị Huyền Trang đã trích dẫn và chê là sơ sài. Đó
là hoa “thường dùng để chỉ
người đẹp, sắc đẹp, tình yêu”.
Trong câu “Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”, từ hoa ở đây chỉ có thể hiểu là “tình yêu” mà
thôi (Vì tình yêu nên phải
đánh đường tìm tình yêu). Bằng không, nếu hoa trong câu thơ trên nói về một giới “mày râu”, cụ thể là Kim Trọng
(Vì Kim Trọng nên phải đánh đường tìm Kim Trọng) như cách liên tưởng của Phan
Thị Huyền Trang, điều đó cũng không có gì là “bất
ngờ”, “tài tình”, độc đáo và
mới lạ trong Truyện Kiều. Bởi từ hoa,
hình ảnh hoa, đã
lâu không chỉ là đặc quyền khi nói về cái đẹp của người phụ nữ. Từ hoa đã mang một nghĩa bao hàm, tượng trưng
khi nhắc đến tất cả những gì, (con người, sự vật hay hiện tượng) có phẩm chất,
hình thức tốt đẹp: hoa tay,
bút hoa, thềm hoa, chiếu hoa,v.v..,Trong “Chinh phụ ngâm” cũng đã dùng “mặt
hoa” để chỉ Phan Lang-một anh chàng, một “mày râu” đẹp trai có tiếng
trong điển tích xưa:
Mặt hoa nọ gã Phan Lang
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng
Nói tóm lại,
với phần “soi sáng” rất công phu dài dòng trên đây, Phan Thị Huyền Trang không
hề tìm được điều gì mới mẻ như cách đặt vấn đề hùng hồn đầu bài viết. Ngược lại
tác giả đã bộc lộ những ấu trĩ không đáng có trong một bài nghiên cứu về ngôn
ngữ Truyện Kiều.
2. “ Cái mới thì không hay”:
Với đề mục thứ 5 “Hoa-bộ phận cơ thể người phụ nữ”-sự
ngộ nhận, non kém về ngôn ngữ, hay sự dung tục trong ý nghĩ của Phan Thị Huyền
Trang đã đẩy ngôn ngữ truyện Kiều đến tận cùng của sự thô lỗ.
Thoạt tiên, Phan
Thị Huyền Trang ca ngợi “Một ý
nghĩa biểu trưng khá thú vị của hoa trong Truyện Kiều là: hoa tương ứng với bộ
phận làm đẹp của người nữ giới.
Hoa là miệng xinh:
Hoa là miệng xinh:
Hoa cười
ngọc thốt đoan trang
Hoa là mặt đẹp:
Lại càng ủ
dột nét hoa”
Như trên đã nói, ví
miệng người con gái cười tươi,
xinh như hoa, vẻ mặt như hoa không
phải là sáng tạo chỉ có trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Do đó không cần tác
giả làm rối rắm thêm vấn đề bằng những kết luận như “Sự tương tác giữa hoa với các từ
xung quanh đã đẩy ngữ nghĩa của từ hoa đi từ trường thiên nhiên sang trường bộ
phận con người”.
Kinh ngạc hơn, tác
giả viết tiếp: “Thêm vào đó,
trong Truyện Kiều, hoa còn tượng trưng cho
bộ phận sinh dục của người phụ nữ, (H.T.C nhấn mạnh) là sự sống xuất
hiện trên khoảng mênh mông của vùng nước khởi nguyên, kết hợp với mùi hương
nồng nàn mà dịu ngọt, hoa tự thân đã có tính thái âm và nữ tính. ý nghĩa tượng
trưng này được Nguyễn Du cảm nhận thực là sâu sắc:
Tiếc thay
một đoá trà mi
Con ong đã
tỏ đường đi lối về
Trà mi là
loại hoa nở vào cuối xuân đầu hạ, nó đẹp bởi sự tinh khiết thuần tuý. Trà mi
thường được sử dụng trong văn thơ để tỉ dụ người con gái đẹp, nhưng để chỉ âm hộ của người phụ nữ
thì ít ai như Nguyễn Du”.(HTC nhấn mạnh)
Than ôi! “ít ai như Nguyễn Du” hay chỉ độc nhất vô nhị Phan Thị Huyền Trang có cách nghĩ và cách cảm thô thiển như vậy?
Than ôi! “ít ai như Nguyễn Du” hay chỉ độc nhất vô nhị Phan Thị Huyền Trang có cách nghĩ và cách cảm thô thiển như vậy?
Cái cớ mà tác giả
dựa vào để “liên tưởng” là căn cứ vào một số ý kiến về “biểu tượng hoa sen
trong văn hoá phương Đông và hoa huệ tây trong văn hoá phương Tây” của một vài
học giả phương Tây. Sau khi tán tụng hình ảnh hoa sen “trong tranh hình Ai Cập”, tác giả kết luận “Trong văn hoá ấn Độ và Trung Hoa,
tầm quan trọng về ý nghĩa biểu tượng của hoa sen, về mặt trần tục cũng như về
mặt linh thiêng đều bắt nguồn từ hình ảnh cơ bản này”. Và Phan Thị Huyền Trang mạnh dạn gán
cho cụ Nguyễn Du một khả năng tư duy “thiên
tài” đáng xấu hổ : “Từ sự liên tưởng hoa trà mi với âm hộ
người phụ nữ, Nguyễn Du đã chạm tới mẫu
gốc thiêng liêng trong văn hoá nhân loại. Đồng
thời, với sự gán ghép phạm trù tự nhiên sang phạm trù con người, phải chăng
Nguyễn Du đã cố ý trộn lẫn các đối tượng: hoa-miệng-mặt-âm hộ. Vẻ đẹp thiên
nhiên tựa như thứ nhạc nền để một hoà tấu cất lên, để ấn tượng về cái đẹp nhân
bản trở thành viên mãn. Những trường hợp hoa mang ý nghĩa biểu tượng này
tuy không nhiều nhưng thực sự có giá trị, vì nó là cái riêng, cái dấu ấn độc
đáo của thiên tài Nguyễn Du”
Xin thưa, ý
nghĩa về sự sinh sản, sinh
dục, tái sinh, phồn thịnh, mẫu gốc của các loài hoa mà Phan Thị Huyền
Trang trích dẫn của mấy ông Tây mang tính biểu tượng, tín ngưỡng của từng dân
tộc, nó khác hoàn toàn với sự liên tưởng cụ thể “đoá trà mi” với “bộ phận cơ thể người phụ nữ”, với “âm
hộ” mà Phan Thị Huyền Trang
phát hiện.
“Tiếc thay
một đoá trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về” là hai câu thơ rất hay trong truyện
Kiều. Nó không chỉ hay và nổi tiếng bởi ghi lại dấu mốc quan trọng nhất, thời
khắc nghiệt ngã, xót xa nhất khi Mã Giám Sinh đã biến nàng Kiều từ một người
con gái trong trắng, tiết trinh, trở thành một người đàn bà “Thân nghìn vàng để
ô danh má hồng”. Sau “tiếng kêu đứt ruột” đầu tiên này, nàng Kiều sẽ tiếp tục
bị đẩy dài trong kiếp đoạ đầy thân xác và tâm hồn. Hai câu thơ còn nổi tiếng và
hay bởi sự diễn đạt nhẹ nhàng, ý nhị, kín đáo mà gợi nên xiết bao đau đớn, tiếc
nuối cho nàng Kiều. Nguyễn Du không viết Tiếc
thay cái nhuỵ trà mi mà dùng chữ “một đoá trà mi”. “Một đoá” ở đây không nhằm chỉ
một bộ phận riêng biệt, cụ thể nào
của bông hoa nên cũng không thể liên tưởng đến một bộ phận cụ thể nào đó của
người (phụ nữ-nàng Kiều). Hình ảnh “đoá trà mi” trong câu thơ Nguyễn Du
chính là (và không chỉ là) vẻ đẹp sắc
sảo mặn mà khiến Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém
xanh của nàng Kiều. Cao hơn, đoá trà mi còn tượng trưng cho vẻ đẹp về phẩm
chất, tâm hồn của Kiều: Sắc
đành hoạ một, tài đành hoạ hai, Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi hoạ
đủ mùi ca ngâm...
Nói tóm lại đoá trà mi chính là con người, cuộc đời, vẻ đẹp đang độ
rực rỡ nhất của nàng Kiều. Dù kém cỏi đến đâu, (thiên tài lại càng không thể) cũng không có nhà
thơ nào lại “ngây” đến mức dùng đoá
trà mi để chỉ cái cụ thể là “âm hộ của người phụ nữ” (ở đây là nàng Kiều) như cách cảm nhận
của Phan Thị Huyền Trang. Kính lạy cụ Nguyễn Du (cụ có hứa tha tội thì con mới
dám nói), nếu hiểu đoá trà mi là “âm
hộ của người phụ nữ” như
nghiên cứu của Phan Thị Huyền Trang, thì con cũng xin mạo muội hỏi rằng:
chắc hẳn “con ong đã tỏ đường đi lối về” kia chính là dương vật của người đàn
ông chứ(?!). Và hỡi ôi! Cái hành động cưỡng đoạt tiết trinh, thân xác nàng Kiều
của “giống hôi tanh” Mã Giám Sinh chính là liên tưởng “về cái đẹp nhân bản trở
thành viên mãn”, là “ Nguyễn Du đã chạm tới một mẫu gốc
thiêng liêng trong văn hoá nhân loại” hay
sao (?!)
Để minh hoạ cho
việc “Nguyễn Du đã cố ý trộn
lẫn các đối tượng: hoa-miệng-âm hộ”, trong bài viết, Phan Thị Huyền Trang
đã vẽ bông hoa năm cánh, trong đó có một cánh biểu thị cho “bộ phận cơ thể
người phụ nữ” (âm hộ) và kết luận: “Như
vậy là từ cách nhận thức ngữ nghĩa truyền thống của từ hoa qua Từ Điển Truyện
Kiều của Đào Duy Anh, chúng ta còn có cơ sở để nhận thức thêm những tầng nghĩa
hàm ẩn, những lớp nghĩa lan toả đầy thú vị của hoa dưới góc độ ngôn
ngữ-văn hoá(?!)
Hình minh họa của Phan Thị Huyền Trang, trong đó có 1 cánh hoa
được đặt tên là "bộ phận cơ thể người phụ nữ" tức là cái "âm
hộ" của nàng Kiều.
Rõ ràng, cái mà
Phan Thị Huyền Trang gọi là “tầng
nghĩa hàm ẩn”, “lan toả
đầy thú vị của hoa dưới góc độ ngôn ngữ văn hoá”, rất thô tục và không thể
chấp nhận ở bài viết của một người chuyên nghiên cứu ngôn ngữ.
3. Bài viết sai về phương pháp luận, thiếu thống nhất khoa
học:
Chúng ta đều biết,
trong truyện Kiều, ngay cả khi không nhắc đến từ “hoa”, cụ Nguyễn Du vẫn viết
về hoa rất hay, rất đẹp :
“Điệu buồn
như cúc, điệu gầy như mai
....
Đoá trà mi
đã ngậm trăng nửa vành,
....
Một
tay chôn biết mấy cành phù dung”
v.v...
Nếu đã đặt vấn đề
nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật vận dụng hình ảnh, biểu tượng của hoa trong
Kiều, những câu thơ nói về hoa mà không có từ hoa như trên của Nguyễn Du không thể gạt
bỏ. Tuy nhiên, Phan Thị Huyền lại máy móc chỉ “liên
tưởng ngữ nghĩa của từ hoa” và “lí giải sự lan toả ý nghĩa của từ
hoa”. Do đó tác giả đã thống
kê cả những từ “hoa” với tư
cách là yếu tố cấu tạo từ: tài hoa, hào hoa, phồn hoa (7 trường hợp). Hoa với
tư cách là từ nhân danh : con Hoa, Hoa Nô (4 trường hợp)”. (Điều này chỉ có
ý nghĩa ở những cuộc thi hát, đố nhau tìm những câu thơ, bài hát có từ “hoa”)
Sau đó, tác giả kỳ công ngồi đếm số lần xuất hiện từ “hoa” trong Truyện Kiều
rồi “chẻ sợi tóc làm tư”, dùng máy tính để thưởng thức Kiều, kiểu như: “có tới 31 trường hợp quy chiếu của
hoa là thiên nhiên (chiếm 25.4%)...có tới 49 trường hợp từ hoa quy chiếu đến
người con gái đẹp (chiếm 40.2%)...ta thấy hoa chủ yếu đóng vai trò là tân ngữ
(chiếm 48.3%). Còn nếu xét các vai nghĩa mà từ hoa biểu thị, ta cũng thấy chiếm
tỉ lệ cao nhất là vai bị thể (42/122 trường hợp, chiếm 34.4%)”,v.v...? Tuy
thống kê chính xác tới 0,...%, nhưng Phan Thị Huyền Trang không hề có kết luận
hay nhận xét sự “quy chiếu” ấy, phần trăm ấy có ý nghĩa như thế
nào trong Truyện Kiều.
Nêu ra tiêu chí chỉ
chọn những từ “hoa” để liên tưởng, nhưng chính Phan Thị Huyền Trang lại
bất ngờ phá vỡ nguyên tắc đã được giới hạn ấy và chọn ngay một câu thơ
không hề có từ hoa để phân tích, làm nội dung cơ bản của
bài viết:
“Tiếc thay
một đoá trà mi
Con ong đã
tỏ đường đi lối về”
Đoá là đoá mà hoa là hoa!
Chỉ với chi tiết này chúng ta cũng có thể kết luận, bài viết rất tuỳ tiện,
thiếu phương pháp luận, thiếu khoa học.
Một bài viết với nhiều sai lầm như vậy, nhưng không chỉ được đăng trên Tạp chí "Ngôn ngữ" của Viện ngôn ngữ mà còn được lưu lại như một tài liệu quý giá trên các website của nhiều trường đại học để sinh viên tham khảo. Phần giới thiệu đầu bài viết cho ta biết, Phan Thị Huyền Trang công tác tại Khoa ngôn ngữ, Đại học khoa học xã hội nhân văn. Nhưng với cách cảm nhận dung tục, thô lỗ như Phan Thị Huyền Trang, liệu sinh viên sẽ học được gì ở Truyện Kiều- tác phẩm xưa nay là niềm tự hào của dân tộc về sự phong phú và trong sáng của tiếng Việt ?
Hoàng Tuấn Công
Bài đã đăng trên Tạp chí Xứ Thanh năm 2007
Chú thích:
(1) Chinh phụ
ngâm-Hán nôm hợp tuyển-NXB Thuận Hoá-2000
"Đóa Trà Mi" có thể được gọi là "đóa đồ mi",vì "trà"và "đồ" viết tiếng Hán giống nhau(?),nhưng người ta không dùng "đồ" vì nó có 1 nghĩa dung tục :
Trả lờiXóa..."Ra hồ sen xem ả hái hoa
Ả hớ hênh ả để ĐỒ ra
Đồ trông thấy đồ ngâm ngay tức khắc"...
như vậy có lẽ Phan thị HT thấy trong "đóa trà mi" có chữ "trà" lại liên tưởng đến chữ "đồ" chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ chăng ?