31 thg 10, 2020

Kỳ 3: SAI CHÍNH TẢ TRONG "TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT - HÁN"


               HOÀNG TUẤN CÔNG 

Nguyễn Văn Khang (NVK) là tác giả và đồng tác giả của 19 cuốn từ điển tiếng Việt. Về từ điển chính tả, NVK có “Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông” (NXB Khoa học Xã hội - 2003) và “Từ điển chính tả tiếng Việt” (GS. TS. Nguyễn Văn Khang – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2018). Chúng tôi đã có loạt bài viết chỉ ra hàng trăm lỗi chính tả trong hai cuốn từ điển vừa nêu, trong đó cuốn xuất bản năm 2018, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội đã buộc phải thu hồi.

Với “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt-Hán”, một lần nữa tác giả NVK lại cho thấy khả năng chính tả tiếng Việt hạn chế của ông. Cụ thể, những sai sót trong cuốn “Từ điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang, tiếp tục được lặp lại, như lỗi lẫn lộn CH với TR, S với X; D với R; GI với D; L với N; IU với ƯU; dấu hỏi ( ̓ ) với dấu ngã (~) và rất nhiều lỗi văn bản khác. 

18 thg 10, 2020

“SÁP NHẬP” HAY “SÁT NHẬP”?


"Sáp" có một nghĩa
là "cắm vào"
                 HOÀNG TUẤN CÔNG


      Nhiều người thường băn khoăn, thắc mắc không biết trong hai từ “sáp nhập” và “sát nhập”, từ nào mới là đúng. Thực tế hiện nay đang tồn tại song song hai cách viết, và từ điển cũng ghi nhận cả hai:

-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê – Vielex): “sát nhập 插入 [sáp nhập nói trại] đg. xem sáp nhập”.

-Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên): “sát nhập • Biến âm của “Sáp nhập”.

          Tuy nhiên, xét nghĩa từ nguyên, thì viết “sáp nhập” mới chính xác. Bởi “sáp nhập” 插入 là từ ghép đẳng lập Hán Việt, trong đó “sáp” (âm khác là “tháp” trong “tháp tùng” 插從) có nghĩa là nhập, cắm, gắn, chen vào. 

    Trong tiếng Hán, chúng tôi không thấy từ điển ghi nhận sáp nhập với nghĩa các tổ chức, đơn vị hành chính nhập vào với nhau làm một. Đây có thể là từ Hán Việt Việt dụng (từ Việt gốc Hán được sử dụng với nghĩa không có trong tiếng Hán).

        “Sáp nhập” với nghĩa hiện hành đã được từ điển tiếng Việt ghi nhận trước 1945:

11 thg 10, 2020

SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT HÁN” (Kỳ 2B)

Sai sót bắt đầu từ bản in 
của NXB Khoa học XH-1999
          HOÀNG TUẤN CÔNG

Kỳ 2B: Thu thập nhiều dị bản thành ngữ tục ngữ Việt thiếu chính xác; nhiều dị bản không tồn tại trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán.

(Phần B)

35-“sợ run cầy sấy”.

Chính xác phải là “run như cầy sấy”, cho thêm “sợ” vào là thừa, trong khi lại thiếu “như” - một yếu tố rất đặc trưng trong kết cấu của thành ngữ biểu thị mức độ cao, sử dụng để so sánh với cái tiêu biểu được nêu ra sau đó.[K].

10 thg 10, 2020

NHIỀU SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT - HÁN” (Kỳ 2A)


           HOÀNG TUẤN CÔNG


Kỳ 2:
Thu thập nhiều dị bản thành ngữ tục ngữ Việt thiếu chính xác; nhiều dị bản không tồn tại trong cả tiếng Việt lẫn tiếng Hán.

(Phần A)

Thành ngữ tục ngữ thường tồn tại nhiều dị bản. Bởi vậy, để lựa chọn được bản chính xác, người biên soạn từ điển cần dựa vào nhiều căn cứ. Ví dụ căn cứ vào từ điển, kho ngữ liệu hoặc công trình sưu tầm tuyển chọn có uy tín của người đi trước; căn cứ kết cấu, ngữ nghĩa của từng từ; căn cứ kiến văn nghe đọc trên sách báo và trong đời sống để xác định bản nào là bản chính. Trong đó, từ điển và kho ngữ liệu là hai nguồn tham khảo quan trọng nhất. Tuy nhiên, dường như nhiều khi tác giả Nguyễn Văn Khang (NVK) đã lựa chọn các bản thành ngữ tục ngữ đại diện cho cả hai phía ViệtHán theo cảm tính, huy động theo trí nhớ. Bởi vậy, “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt – Hán” thu thập nhiều dị bản không tiêu biểu, “dị bản lạ”, thiếu chính xác, không thấy bất cứ cuốn từ điển nào ghi nhận. Sau đây là một số dẫn chứng (Chúng tôi đánh số tiếp theo kì trước để tiện chú dẫn khi cần thiết. Với những mục chỉ sai ở phía thành ngữ tục ngữ Việt, thì chúng tôi lược bỏ phần đối chiếu với thành ngữ tục ngữ Hán. Nếu tất cả các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay đều không ghi nhận dị bản như NVK đưa ra, sẽ được đánh kí hiệu [K] cuối mỗi mục trao đổi):

9 thg 10, 2020

NHIỀU SAI SÓT TRONG “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT - HÁN” CỦA NGUYỄN VĂN KHANG (Kỳ 1)

 
HOÀNG TUẤN CÔNG

Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán” (Nguyễn Văn Khang - NXB Văn hoá Sài Gòn – 2008), mục “Thay lời nói đầu” của sách cho biết: “cuốn từ điển này được xuất bản lần đầu vào năm 1999 với tên là “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt-Hoa” (NXB Khoa học Xã hội). Và lần xuất bản sau, tác giả “có chỉnh sửa và bổ sung nhất định. Chẳng hạn, về mặt hình thức có thay đổi sử dụng chữ Hán giản thể; về nội dung, có bổ sung thêm được một số thành ngữ, tục ngữ đối chiếu tương đương […] Là công cụ tiện lợi cho việc những người biên, phiên dịch, giao tiếp song ngữ Hoa – Việt và học tiếng Hoa, tiếng Việt với tư cách là một ngoại ngữ…”.

4 thg 10, 2020

"NGU NHƯ BÒ" và "LỢN LIÊU ĐÔNG"


Minh hoạ thành ngữ "Liêu Đông thỉ"

       HOÀNG TUẤN CÔNG

 

Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt - Hán” (Nguyễn Văn Khang - NXB Văn hoá Sài Gòn – 2008), là cuốn từ điển đối chiếu những đơn vị thành ngữ và tục ngữ có nghĩa giống nhau trong tiếng Việt và tiếng Hán. Sách này cho rằng, thành ngữ “ngu như bò” và “ngu như lợn” trong tiếng Việt đồng nghĩa với 遼東之豕 (Liêu Đông chi thỉ) trong tiếng Hán. Tuy nhiên, đây là cặp thành ngữ Việt và Hán hoàn toàn không đồng nghĩa.