“Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương – NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh – 2010) giảng: “Ăn có sở; ở có nơi: Ăn thì nên chọn những thứ hợp sở thích mà
ăn; ở thì nên chọn những nơi thuần hậu mà cư ngụ”. (chú thích: “sở dt. Sở thích [nói tắt]”.
Tuy nhiên, soạn giả hiểu sai nghĩa của từ “sở”, nên diễn giải sai,
và dẫn đến giải thích sai cả hai vế, cũng là sai cả câu.
“Sở” 所 đây có nghĩa là “nơi, chốn”, mà Hán ngữ đại từ điển giảng là “xứ, địa phương” (處所;地方), chứ không phải “sở” là “sở thích”. Từ điển Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập): “sở • Chốn, nơi <> xứ-sở.”; Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức): “sở • I Nơi, chốn, thửa <> ở yên sở. Một sở ruộng. Nghĩa rộng: Nơi có đông người làm việc <> Sở xe lửa”.
Người Thanh Hóa khi trách mắng ai đó sống không ngăn nắp, vật dụng
để lộn xộn, thường nói: “Đồ đạc để chẳng có sở
có mỗ gì cả!” (đồ đạc, vật dụng để
tùy tiện, không đúng chỗ). Theo đây, “sở” (所) có nghĩa là nơi chốn; mà “mỗ” (某) cũng là phiếm chỉ sự vật, họ tên người hoặc nơi chốn nào đó (như mỗ danh 某名; mỗ xứ 某處).
Như vậy, trong câu “Ăn có sở, ở có nơi” thì “sở” đối với “nơi”, đều
phiếm chỉ địa điểm. Trong tiếng Việt, chưa bao giờ “sở” được hiểu là nói tắt của
“sở thích” như Nguyễn Đức Dương chú
thích. “Ăn có sở ở có nơi” chính là dị bản đồng nghĩa của “Ăn có nơi, chơi có chốn”; “Ăn có chỗ, đỗ có nơi”; “Ăn tuỳ nơi, chơi tuỳ chốn”, và dị
bản gần nghĩa: “Ăn chọn nơi, chơi chọn
bạn”.
HTC/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét