Đền thờ Nguyễn Nghi - Đông Sơn TP Thanh Hoá Ảnh: báo Thanh Hoá |
Độc giả Phùng Đình Đạt (Hà Nội) hỏi:
“Gần đây tôi có
đọc hai bài viết về từ “thăm quan” và “tham quan”.
Bài thứ nhất viết:
“Rất nhiều người, bao gồm không ít vị có chức sắc hoặc bằng cấp cao, vẫn dùng từ “thăm quan” và khăng khăng rằng như vậy mới đúng. Nhiều lần, khi ai đó nói hoặc viết là “thăm quan” khu du tích, “thăm quan” ngôi chùa cổ hay địa điểm du lịch, tôi có góp ý rằng phải là “tham quan” mới đúng. Tuy nhiên, không ít người vẫn nhất quyết rằng họ không sai.
“Rõ ràng là chúng ta đến
thăm và quan sát, ngắm nghía nơi này, nói thăm quan thì ai cũng hiểu, sao lại bảo
là sai được?”, một cán bộ huyện từng
nói với tôi. Nhiều người khác cũng hiểu theo cách của anh, đó là lý do lỗi này
phổ biến đến vậy. Tuy nhiên, “thăm” theo nghĩa thăm nom mà anh ấy dùng là từ tố
thuần Việt, sẽ không được kết hợp với từ tố Hán Việt để tạo thành một từ ghép.
Trong từ “tham quan”, “tham” có nghĩa là can dự, tham gia vào, dự vào…, còn
“quan” nghĩa là nhìn, xem (quan sát).” (trích báo VTC).
Bài thứ hai viết:
“Từ điển
Hán Nôm cũng ghi nhận từ đúng là “tham quan”, viết là 參觀, trong đó “tham” (參) là cùng một chữ với “tham” trong “tham gia”,
“tham khảo”, vốn có hai nghĩa: 1. Xen vào, gia nhập, 2. Nghiên cứu; còn “quan”
(觀) cũng được
sử dụng trong “quan sát”, “mĩ quan”, có 2 nghĩa: 1. xem, 2. Đối tượng được xem.
Vậy dịch thuần ra, “tham quan” là đến tham gia, nghiên cứu cái mà mình muốn xem.” (Tiếng Việt giàu đẹp).
Vậy xin chuyên mục Cà kê
chuyện chữ nghĩa cho biết, những phân tích trên đây có đúng không?
Trả lời:
Cả hai trích đoạn bài từ hai bài viết trên đây đều có điểm đúng,
và có điểm chưa đúng.
1-“Tham” trong “tham quan” có phải là “tham gia”, “tham
dự”,…?
Thực ra, chữ “tham” trong “tham quan” không có nghĩa là “can dự, tham gia vào, dự vào…” (như giải
thích của báo VTC), hay “xen vào, gia nhập”
(như giải thích của Tiếng Việt giàu đẹp),
mà có nghĩa là kiểm tra, khảo sát, tìm
tòi, nghĩa thứ 5 mà Hán ngữ đại từ điển đã giảng (nguyên
văn “tham: 5. kiểm nghiệm; khảo sách kiểm
chứng - 參: 5. 檢驗;考索驗證).
Với từ tham quan 參觀, Hán điển và Hán
ngữ đại từ điển giảng: “Tham quan vốn chỉ sự quan sát, đối chiếu, hiện nay được dùng với nghĩa là quan sát thực địa”. Theo đây, tham quan trong tiếng Việt cơ bản cũng được
hiểu tương tự như trong tiếng Hán: “đi xem
tận nơi, tận mắt để mở rộng hiểu biết hoặc để học tập kinh nghiệm.” (Từ điển
tiếng Việt - Hoàng Phê chủ biên – Vietlex). Chính chữ tham (với nghĩa kiểm tra, khảo sát, tìm tòi, xác minh), đã tạo nên ý “mở rộng hiểu biết hoặc để học tập kinh nghiệm”.
Cũng là đến xem (quan sát), nhưng có sự suy
xét, tìm tòi, đối chiếu, so sánh sự vật mình đang xem với những gì mình đã
biết trước đó.
Cách giảng của VTC,
hay Tiếng Việt giàu đẹp, có lẽ xuất
phát từ sự suy diễn: các đoàn đi tham quan
học tập thường có nhiều người tham
gia, tham dự. Sự nhầm lẫn, suy diễn này tương tự Từ điển từ và ngữ Việt Nam
(GS Nguyễn Lân) khi giảng nghĩa của từng yếu tố Hán Việt trong từ “tham quan” là: “tham: dự vào; quan: xem
xét”. Tuy nhiên, đi tham quan mà đi một mình,
không “dự vào” với bất cứ đoàn nào,
thì vẫn được gọi là tham quan như thường.
2. “Thăm” trong “thăm hỏi”, “thăm nom” có phải là “thuần Việt”?
Câu trả lời là không phải. Thăm
trong thăm nom, thăm hỏi, thăm viếng,
là từ Việt gốc Hán, chính là chữ “tham” 參 trong “tham quan” 參觀.
Hán ngữ đại từ điển giảng chữ tham 參 có tới 12 nghĩa, trong đó
ngoài nghĩa 5 (kiểm tra, khảo sát, tìm
tòi), mà chúng tôi đã nêu ở trên, tham
còn một nghĩa nữa liên quan đến vấn đề đang bàn, đó là thăm hỏi. Hán ngữ đại từ điển giảng nghĩa thứ
4 của tham là “vấn hậu - 問候”, nghĩa là thăm hỏi, hỏi
thăm, vấn an.
Về mối quan hệ AM → ĂM (tham↔thăm), chúng ta có thể dẫn ra hàng loạt như: thám 探→ thăm (thám thân 探親 = thăm thân), thám sát 探察 = thăm dò; tàm 蠶 → tằm (con tằm); đam đam 眈眈→ đăm đăm (nhìn đăm đăm, nhìn chằm chằm),v.v…
Như vậy, thăm trong thăm hỏi, thăm nom hoàn toàn không phải là
“từ tố thuần Việt”, mà là một từ Việt
gốc Hán chính tông. Mặt khác, “từ tố thuần Việt,
sẽ không được kết hợp với từ tố Hán Việt để tạo thành một từ ghép” là một luận thuyết dĩ hư truyền hư, và đương nhiên không phải lí do để bác bỏ cách viết “thăm quan”.
3. “Tham quan” và “thăm quan”
Câu hỏi đặt ra là chữ thăm
trong thăm hỏi và chữ tham trong tham quan, đều cùng có cùng một tự hình là 參, vậy viết là “tham quan”
đúng, hay là “thăm quan” mới đúng?
Không có bất cứ cuốn từ điển tiếng Việt nào chúng tôi có trong
tay ghi nhận từ “thăm quan”. Điều này có lí do của nó, bởi tuy là cùng chung tự
hình, nhưng “tham” mang nghĩa suy xét, tìm tòi, đối chiếu, so sánh, trong
khi thăm (đã biến âm), lại chỉ có
nghĩa đơn thuần là xem, thăm hỏi, thăm viếng (không bao hàm nghĩa quan sát thực địa để mở rộng hiểu biết hoặc học tập kinh nghiệm). Như
vậy, cho dù khi viết “đi thăm quan học tập”, “đoàn thăm quan”, người ta không
hiểu lầm thành đi hỏi thăm và học tập, đoàn đi xem và hỏi thăm, nhưng xét về
chuẩn chính tả và sự trong sáng của từ ngữ, thì phải viết là “tham quan” mới
đúng(*). Đây là sự phân công, quy ước chức năng biểu đạt của từ ngữ nói chung, và
các yếu tố cấu tạo từ nói riêng. Nếu cứ tuỳ tiện thay đổi, thì tiếng Việt sẽ loạn.
Phải viết là “tham quan”,
thay vì “thăm quan”, cũng như phải viết
“tham vấn” thay vì “thăm vấn”, phải viết là “an ninh” thay vì “yên ninh” vậy. Về ý này, VTC và Tiếng Việt giàu đẹp đã đúng.
Hoàng Tuấn Công/10/2023
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét