Phong cảnh làng quê xã Quảng Hoà Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN PHỔ
Mẹ
tôi gánh cói xuống chợ Nguyễn bán được lời gấp rưỡi tiền vốn, nhưng của một đồng
công một nén. Vất vả quá! Các chuyến cói sau tôi cố gắng gánh 5 gù. Về đến Cung
Bịch, bố tôi đi rước, kêu nặng, vai đau gối mỏi, ì ạch mãi từ nửa chiều đến chập
tối mới về đến nhà. Ông đặt gánh cói xuống giữa sân, hai tay nắm lại đấm vai, đấm
lưng, bảo hơi thở ra đằng tai phào phào! Mẹ tôi biết sức tôi yếu, vóc tôi gầy
nhỏ, khó kham nổi cái nghề ăn no vác nặng, nhưng chưa biết tính toán đường làm
ăn thế nào.
Chú
tôi vừa mới được tha tù, án 8 năm. Hiệp định đình chiến Giơ-ne -vơ đã lâu, đến
nay mới thực hiện là quá muộn. Sống ở nơi rừng thiêng nước độc, chú tôi bị mắc
bệnh sốt rét khá nặng, ốm yếu, nhiều lúc hai mắt trợn ngược, xều bọt mép, tưởng
chừng đến phút về với ông bà, nhưng rồi lại hồi tỉnh.
Đã
xong mùa cày, thím tôi bán con bò mệ, tính hoạn lại con me để lấy tiền mua thuốc
cho chồng. Tôi bàn với mẹ tôi:
-Con
đi Nga Sơn đã 5 chuyến, người ta gánh khoẻ gấp đôi mình, mỗi chuyến đủ nuôi cả
vợ chồng con cái. Còn nhà ta chỉ đủ rau cháo qua bữa. Giá con có một cái xe đạp
để thồ cói, vừa khoẻ người, vừa kiếm thêm được đồng dư dật. Thím Ất mới bán con
bò, hay là mẹ thử vay mượn xem…
Nghĩ ngợi một lát, mẹ tôi
nói:
-Con
tính toán phải, nhưng cái khó bó cái khôn, để mẹ thử hỏi thím thử coi…
Thím
Ất tên chính là Át, con nhà ông cố Giúc xóm Bắc, người cùng làng, hơn chú Thuyết
tôi hai tuổi. Năm 18 tuổi, thím đã tỏ ra
một gái quê thực thụ, to cao, khoẻ mạnh, siêng làm, tham việc, không xấu, không
đẹp. Thím hơn chú tôi hai tuổi, ông bà tôi cưới về cốt lấy người gánh vác công
việc đồng áng để có điều kiện cho chồng ăn học. Tính thím bạo dạn, đêm mới cưới,
trò chuyện với chồng cứ oang oang, chẳng e thẹn gì cả. Ông tôi nằm nhà trên, chỉ
hết đằng hắng lại e hèm. Bà tôi ngủ nhà dưới, chờ lâu không thấy chúng nó im
cho, buộc phải lên tiếng: “Vợ chồng nhà đỏ…à quên, nhà nhiêu có chuyện nhỏ cho
người ta nghỉ ngơi không? Đình đám cả ngày, công ni việc khác sức voi mô mà
không mệt nhọc!” [*].
Thím tôi siêng năng, khoẻ mạnh, tham công tiếc việc có tiếng
trong làng, được nhiều người khen ngợi, nhưng cũng có kẻ chê “chỉ được cái ăn
no vác nặng!” hoặc “ăn no ngủ kĩ”, “nằm đâu ngủ đó”…Ông bà tôi rất hài lòng về
thím tôi, càng khen thím tôi bao nhiêu, càng chê mẹ tôi bấy nhiêu, rằng “yếu
như sên”, rằng “váy dài tốn vải, khôn ăn dại làm”, rằng “đi bên nội, lội bên
ngoại”…Đến khi cảnh nhà khó khăn mới biết mẹ tôi không vững tay chống chèo thì
“giang sơn nhà chồng” khó vượt qua cơn sóng gió.
Mẹ
tôi và thím tôi giống nhau một điểm biết thương người. Năm Ất Dậu (1945) hai chị
em đi chợ Thượng Cầu Quan (Nông Cống) thấy người ăn xin ăn mày chết đói hoặc ngắc
ngoải nằm la liệt. Một bà mẹ bán con gái duy nhất đang lả đi vì đói. Không ai
mua, rồi cho cũng không ai nhận, vì họ cũng đang đói. Bà mẹ khác có hai con, một
bé trai đang cố trườn trên cái bụng lép kẹp để day đi day lại đôi núm vú đen
sì, da dính sát ngực, không giọt sữa. Đứa chị xương bọc da nằm bên chân mẹ, cố
chìa ra bàn tay xương xẩu run rẩy, nói chẳng còn hơi.
Trong
đám mấy đứa trẻ, thím tôi định giá, bé gái 6 tuổi 5 tiền, đứa mới lên 5 thì 6
tiền. Mẹ tôi không hiểu tai sao đứa nhỏ nhiều tiền, đứa lớn lại ít tiền. Thím
giải thích: đứa lớn khôn hơn, biết đường có thể trốn về với mẹ, đứa nhỏ có vẻ
còn thơ dại không biết lối nào mà lần. Quả nhiên mấy năm sau trời yên bể lặng,
con lớn mẹ nó tìm được, xin mất. Còn con nhỏ mẹ nó đã chết sau đận ấy. Người
làng đi chợ Thượng về nói khi mẹ nó chết thằng em vẫn nằm trên bụng mẹ lạnh ngắt,
nhay nhay cái vú chỉ còn tảng da dính sát mảng ngực xám ngoét không chút hơi thở
tàn.
Lại nói, thím tôi nhận nuôi đứa lớn để sai vặt, đặt tên Ất
để nhớ năm đói Ất Dậu. Đứa nhỏ mẹ tôi đặt tên Nông, ghi nhớ quê nó ở huyện Nông
Cống. Có lẽ không phải nó lên 5, vì nhớ được tên bố là Bừa, tên mẹ là Mau, người
làng Mẩy.
Năm 1949, tôi trọ học ở làng Cầu Nhân (huyện Nông Cống) được
biết có làng Thanh Y, Mỹ Phong, và làng Bình Doãn chỉ cách có con sông Nhà Lê về
phía Tây. Làng Mỹ Phong phát âm là Mẩy Phong, nhiều gia đình chết đói năm Ất Dậu.
“Bừa” là tiếng Việt Mường cổ, khi kí âm Hán Việt thành “Bình”.
Làng
Bình Doãn có nhà thờ họ Vũ thờ ông tổ Vũ Uy. Ông là con nuôi Lê Lợi, cùng
Trương Chiến, Trịnh Vô, Trịnh Lỗi…cày ruộng ở động Chiêu Nghi, đất Lam Sơn. Động
Chiêu Nghi nuôi nhiều bò. Các ông rèn luyện sức khoẻ bằng cách cứ sáng dậy mỗi
ông vác một con bê, ngày nào cũng vác đúng con ấy từ nhỏ đến trưởng thành. Sau
một năm, ông nào cũng dư sức khoẻ vác cả con bò đực chạy băng băng. Khi khởi
nghĩa Lam Sơn, các ông đều là tướng bộ binh, giỏi đánh giáp lá cà, hai tay hai
cây đại đao xông thẳng vào đám giặc tung hoành như cọp beo giữa bầy cày cáo.
Quét sạch quân Minh, các ông đều được thưởng công, ban họ vua, tên ghi biển
công thần. Vũ Uy biết ít chữ, không nhận quan tước, xin vua cho vỡ hoang lập trại.
Theo gia phả họ Vũ, ông về vỡ hoang nhiều nơi trong tỉnh, chiêu tập người nghèo
lập được 45 trại ấp, sau phát triển thành làng xã. Những nơi ấy đều có con cháu
họ Vũ, dựng nhà thờ, đèn hương đời đời để ghi nhớ công lao cụ Tổ.
Tôi không có em nên Nông ở nhà tôi chơi cả ngày. Nó nhớ em
trai, thường gói quần áo buộc lại giả làm em đặt lên võng ru. Nó hay hát bài “Đồn
rằng Cổ Đệnh mở hội chợ Nưa…” chứng tỏ
nó là người Nông Cống ( Thanh Hoá, phát âm inh
thành ênh). Năm gia đình tôi bị quy phú
nông, mẹ tôi đem Nông cho một nhà ở xã Quảng Văn nuôi để thay đổi số phận. Năm
1965, nó được làm cấp dưỡng cho cơ quan Huyện uỷ Quảng Xương. Năm 1972, chủ
trương giảm nhẹ biên chế Nhà nước, Nông về nhà rồi lấy chồng xã Quảng Hải. Năm
1978, vì gia đình nghèo khó nên chuyển vào Nam xây dựng kinh tế mới. Sau nghe
nói Nông bị ốm đau mất luôn trong đó.
Em Ất
thì mẹ đẻ vẫn làm ăn buôn bán vùng Cầu Quan, bị chứng “hạc tất phong”, đầu gối
sưng đau, đi lại khó. Tình cờ gặp bố tôi bán thuốc đơn thấp khớp ở chợ Thượng,
được ông chữa cho khỏi. Bà lân la hỏi dò mới biết con gái bà trước bán cho thím
tôi làm con nuôi. Bà quê Nam Định, hồi kháng chiến chống Pháp chạy loạn
tản cư vào Thanh Hoá, chồng chết, con chết, chỉ còn lại một đứa bé đặt tên Quảng
(sau khi bán về cho thím tôi, được đặt tên là Ất, để ghi dấu năm đói Ất Dậu). Ất
thường hát ru em, đứa con gái đầu thím tôi:
Diều
hâu mày niệng cho tòn
Xuống
đây tao gả một đoàn gà con
Gà
con tao để tao luôi
Tao
gả con chó cụt đuôi cho mày!
Căn
cứ những từ mày, niệng, tòn, đoàn, luôi,…chắc
chắn nó phải người Nam Định. Thím tôi bằng lòng cho Ất về với mẹ nó. Con gái đầu
chú thím tôi chưa đặt tên, lấy luôn tên Ất đặt cho tiện.
Thím
tôi “gan” lắm. Đó là từ mẹ tôi hay dùng để chỉ người hà tằn hà tiện. Bà nội
tôi, sau khi ông nội tôi mất (1946) ở với chú thím tôi, vì tính cụ cũng thấy
thích hợp đường ăn nết ở của nàng dâu. Cho nên cụ đi chợ Nguyễn hay mua cá nhám
khá rẻ, kho kỹ để lâu, ăn dè, và biết đâu cách dùng lá núc nác chống mùi khai của
cá cũng là “sáng kiến” của bà tôi!
Thím
tôi vui vẻ cho Ất về với mẹ nó, mặc dù nhà cũng đang cần người giúp việc. Chú
tôi cũng tốt tính, vợ chồng ăn ở với nhau đã hai con vẫn chưa hề lời nặng tiếng
nhẹ làm “gẫy hạt gạo”. Hễ thím tôi bực mình lẩm bẩm lầm bầm, chú tôi ngồi thẩn
thờ im lặng, cứ “cơm sôi bớt lửa” là êm chuyện. Có lẽ chú tôi cũng tự biết mình
cố công học hành mãi mà chẳng nên cơm nên cháo gì! Những lúc nằm vắt tay lên trán,
gối đầu lên cửa sổ, chú tôi thường ngâm nga:
Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong…
Sao
chú không về cày sớm? Có lẽ chú tiếc số vốn liếng văn hoá, đành làm nghề dạy học
tư kiếm miếng cơm chín của nhà giàu để rồi chui đầu vào tù, sau 3 năm hoá thân
tàn ma dại! Bây giờ vợ phải bán con bò cày, cơ nghiệp của nhà nông để lấy tiền
thuốc thang chạy chữa cho chồng. Mua thuốc gì? Lúc ấy thuốc Tây hiếm, thuốc Bắc
có nhưng thầy lang y khó tìm, khoai lang dễ kiếm. Đành chạy chữa nhì nhằng vậy!
Bố tôi có biết thuốc Đông y cũng đành thúc thủ vô phương, vì đơn kê ra, đem đến
hàng hiệu nào cũng bị “què vị”. Ông thường nói: “Phương dược cụ Hải Thượng Lãn
Ông hay lắm, nhưng nặng tiền, khó mua, mình không dùng được!”. Thế thì con bệnh
đành chịu chết sao? Nhiều lúc nghe tiếng thím tôi kêu la, hai cha con chạy qua
bờ rào sang thấy chú tôi trợn mắt há mồm, tưởng đến phút lâm chung, chẳng còn
hy vọng gì được nữa, nào ngờ sau đó lại hồi tỉnh! Có lẽ căn bệnh quái ác nó
sinh ra thế!
Buổi
tối cơm nước xong, mẹ tôi hỏi vay thím tôi bốn mươi đồng để mua cái xe đạp cho
tôi buôn cói Nga Sơn, sau mỗi chuyến được đồng lãi nào lại trả cho thím. Thím
tôi bằng lòng cho vay ngay.
Đang
thời buổi kinh tế khó khăn, 40 đồng bạc là to lắm! Tôi rủ anh con bà dì cả biết
nghề xe đạp đi thị xã Thanh Hoá. Trước kia chợ tỉnh Thanh mua bán trâu bò, nay
thêm mua bán xe đạp. Xe mới, xe cũ nhộn nhịp đông đúc, nhãn mác rối tinh, sắc
màu mờ tỏ, vàng thau khó phân. Xem chọn mãi, chúng tôi mua được cái xe nhãn hiệu
Pháp đã tróc sơn khung, còn đọc được chữ Super giá 38 đồng, hợp túi tiền. Còn lại
2 đồng phải mua cái bơm, kể giá hơi đắt. Nhưng ông hiệu xe đạp bắt bí, thôi
đành vậy, hai anh em nhịn đói ra về.
Bố
tôi mắc vó xuống ao, kẻ sục người kéo, đánh mãi được hai con cá mè ranh, nấu dấm
khế, thêm đũa mẻ, lá nghệ, bắc nồi xuống mùi thơm lừng, cả nhà ăn mừng mua được
xe đạp!
Hoàng Tuấn Phổ/2019
(Còn tiếp)
Chú thích:
[*]-Phong
tục quê Thanh, vợ chồng mới lấy nhau không được gọi tên tục. Nếu chồng đi học học
là “nhiêu”, không học hành gọi là “đỏ”, khi có con gọi tên con, chưa đặt tên, đẻ
con trai là anh cò, chị cò, hoặc bố cò, mẹ cò, con gái thay bằng “hĩm”. Trường
hợp hiếm muộn, chưa có cháu, không được gọi là ông, bà, phải gọi là anh chị hoặc
ông mụ và dùng tên cháu của anh em trong nhà…
Thật là tuyệt vời ! Ông cụ Hoàng tuấn Phổ là cả một kho tàng những chuyện xảy ra vùng quê Thanh Nghệ Tĩnh đầu thế kỷ 19) và những việc tàn ác trong Cải Cách Ruộng Đất sau "kách mệnh" mùa Thu 1945 !
Trả lờiXóaTiếc cho nền giáo dục nước nhà, cả một kho tàng kiến thức ở đây mà không được tận dụng, để cải cách giáo dục nước ta đang trong vòng quanh quẩn.
Trả lờiXóa