Ảnh minh hoạ; ST |
Cả hai cuốn sách Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông (Nguyễn Văn Khang – NXB Khoa học Xã hội - 2003) và Từ điển chính tả tiếng Việt (Nguyễn Văn Khang – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 2018), đều hướng dẫn phải viết sán lạn mới đúng.
Ba Sơn - dãy núi khúc chiết hình chữ ba 巴 Ảnh: ST |
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên-Trung tâm Từ điển học Vietlex – NXB Đà Nẵng - Bản có chú chữ Hán cho những
từ Hán Việt) thu thập và giải nghĩa:
“khúc chiết • 曲折 t. 1 [cũ, ít dùng] quanh co, không thẳng. lựa lời khúc chiết để chối quanh; 2 [cách diễn đạt] có từng đoạn, từng ý, rành mạch và gãy gọn. lời văn khúc chiết ~ “Giọng rõ ràng, khúc chiết, thầy nói đến đâu dẫn ra sự việc chứng minh đến đấy.” (Đoàn Giỏi).
HOÀNG TUẤN CÔNG
Minh hoạ của Petrotimes |
“Trong ngôn ngữ dân gian, báo cô hay nuôi báo cô có nghĩa là nuôi người chỉ ăn hại, không giúp ích được gì. Trong gia đình, dòng họ, dù bị lên án là đồ báo cô nghĩa là kẻ vô tích sự nhưng không thể vất đi như một món đồ hư hỏng, thủng bẹp. Gia đình ấy, dòng họ ấy kể cả những bậc cha già, mẹ héo hoàn cảnh cơ hàn vẫn phải nuôi báo cô kẻ ấy…” (Bao giờ hết…báo cô? - petrotimes.vn - 2015).
Vì sao lại gọi là “nuôi báo cô”?
HOÀNG TUẤN CÔNG
Nhân tình và tình nhân là hai từ Việt gốc Hán có hai
nghĩa khác nhau. Nhân tình人情 = tình người; tình cảm giữa người với người; lòng dân, tình
hình dân chúng; còn tình nhân 情人 = người tình; người yêu.
Tuy nhiên, thực tế sử dụng hai từ này trong
tiếng Việt lại khá rắc rối. Nhiều người dùng đúng, nhưng cũng không ít người
nhầm lẫn, đánh đồng, hoặc không phân biệt rõ ràng giữa hai từ nhân tình và tình
nhân.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) ghi nhận cách dùng trong thực tế như sau:
Nhà nghiên cứu Thái Hạo (trái) trong buổi trò chuyện tại Tuấn Công Thư Phòng |
-Hoàng Tuấn Công: Thưa ông Thái Hạo, tôi có đọc một số bài viết ông đề cập đến những thói hư tật xấu mang tính cố hữu của người Việt. Gần đây nhất là bài “Tiếng cười, tiếng chửi và tiếng nói”. Vậy ông có bài viết nào về tính cách của người Thanh Hoá không?
Mèo trong tranh Đông Hồ Ảnh: ST |
Người Trung Quốc coi Mão là năm con Thỏ, trong khi với người Việt Nam,
Mão lại là năm con Mèo. Có nhiều cách giải thích về sự khác biệt này. Ví như
Nhà sử học người Pháp Philippe Papin cho rằng, do Mão (thỏ) trong tiếng Hán gần âm với mèo trong tiếng Việt, nên con thỏ mới biến thành con mèo. Ý kiến
khác lại cho rằng, với những cư dân trồng trọt thì mèo có tài bắt chuột mới là
con vật có vị trí quan trọng. Đây chính là lý do người Việt thay thỏ bằng mèo.
Quả tình, với người Việt Nam, con thỏ mờ nhạt trong đời sống kinh tế văn hoá bao nhiêu, thì ngược lại, con mèo lại gần gũi và chiếm một vị trí quan trọng bấy nhiêu. Chỉ tính riêng lời ăn tiếng nói dân gian, thì con mèo xuất hiện trong thành ngữ tục ngữ chiếm vị trí áp đảo so với con thỏ.
Truyện cổ Miêu thần hay sự tích chuột và mèo kể rằng, mèo và chuột vốn là hai vị Thử thần và Miêu thần trên Thiên đình (thử 鼠 trong tiếng Hán có nghĩa là chuột). Thử thần vốn là vị quan thanh liêm, giữ chức Thiên khố giám (trông coi kho lẫm nhà Trời). Do thấy của cải nhà Trời nhiều không kể xiết, Thử thần nảy sinh lòng tham, thường hay trộm cắp, bớt xén, nên bị Ngọc Hoàng bãi chức và đày xuống trần gian, hóa kiếp làm con vật tý hon, mồm nhọn, răng sắc, đuôi dài, sống chui rúc trong các xó xỉnh, cống rãnh.
Tết xưa Ảnh: TL |
Độc giả gửi tới chuyên mục Cà kê chuyện chữ nghĩa câu hỏi: “Một trường tiểu học nọ lên ma két chương trình mừng Xuân Quý Mão 2023 có tên Xuân yêu thương, Tết xum vầy. Tôi thấy phổ biến là dùng sum vầy, nhưng người làm ma két lại nói phải viết xum vầy mới đúng. Vậy xin chuyên mục cho biết, Tết sum vầy hay Tết xum vầy đúng chính tả”.
Minh họa: ST |
HOÀNG TUẤN CÔNG
-“xoay xở đgt. Làm bằng mọi cách sao cho đạt được mục đích, có được cái cần có. Xoay xở để kiếm cho bằng được một căn hộ đẹp. Anh ta là người giỏi xoay xở. Xoay xở đủ cách vẫn không được việc. “Xem ra chỉ có cái tài chạy việc vặt và xoay xở chứ chẳng có nghề ngỗng gì ra hồn.” (Ma Văn Kháng)”.
HOÀNG TUẤN CÔNG
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê-Vietlex – Bản có chú chữ Hán cho những từ Hán Việt – NXB Đà Nẵng 2017) thu thập và giải nghĩa “vô hình trung 無形中” là: “tuy không chủ ý, chủ tâm nhưng tự nhiên lại là như thế [tạo ra, gây ra việc nói đến]”. Từ điển này lấy ví dụ: “không nói gì, vô hình trung là thành đồng ý”.
Độc lập luôn là khát vọng của Đài Loan |
“Những từ dùng sai trong tiếng Việt” là bài viết dĩ hư truyền hư, nhưng lại được không ít người tâm đắc, đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên mạng trong nhiều năm qua. Theo tìm hiểu của tôi, thì bài viết này từng được đăng trên trang của nhà văn Triệu Xuân (trieuxuan.vn) vào “Thứ sáu, 02:20 Ngày 17/01/2014”, phần tác giả ghi “Đỗ Duy Ngọc soạn theo tư liệu trên internet”, với lời chú “tác giả gửi w.w.w trieuxuan.info”. Bản thân tôi cũng từng được đọc bài này trên trang FB của Đỗ Duy Ngọc.
HOÀNG TUẤN CÔNGHình minh hoạ ST
“Những từ dùng sai trong tiếng Việt” là bài viết có rất nhiều sai sót, thậm chí là “tuyên truyền nhảm”, nhưng lại được không ít người tâm đắc, đăng tải, chia sẻ rộng rãi trên mạng trong nhiều năm qua. Không rõ bài viết của ai, chỉ thấy người ta ghi là “sưu tầm”. Còn sưu tầm ở đâu thì không thấy ghi rõ. Theo tìm hiểu của tôi, thì bài viết này từng được đăng trên trang của nhà văn Triệu Xuân (trieuxuan.vn) vào “Thứ sáu, 02:20 Ngày 17/01/2014”, phần cuối bài ghi “Đỗ Duy Ngọc soạn theo tư liệu trên internet”, với lời chú “tác giả gửi w.w.w trieuxuan.info”.
Mắm cá cơm hoà toàn có thể gắp được Ảnh: ST |
Trên báo Thanh Hoá (số thứ ba, ngày 4/10/2022), mục “Cà kê chuyện chữ nghĩa” có bài “Liệu cơm gắp mắm” của HDT. Đây là câu tục ngữ khá quen thuộc, tưởng chừng không có gì cần phải bàn thêm nữa. Tuy nhiên, tác giả bài viết đã đặt vấn đề khá thú vị về cách hiểu cặn kẽ nghĩa đen, nghĩa bóng câu tục ngữ. Tiếc rằng, do thiếu am hiểu về thực tế đời sống cũng như lời ăn tiếng nói của dân gian, nên tác giả đã giải quyết vấn đề theo lối cảm tính, tuỳ hứng, tiền hậu bất nhất, dẫn đến những sai sót đáng ngạc nhiên.
Để tránh "dĩ hư truyền hư", chúng tôi xin lần lượt trao đổi lại một số điểm như sau:
Trong bài viết: “Sạn” trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1không chỉ riêng bộ Cánh Diều” tác giả Xuân Dương đã “nhặt sạn” như sau
(trích):
-“Trong tiếng Việt, các
cụm từ “hạt lúa” và “hạt thóc” đôi khi được dùng với ý nghĩa tương tự, tuy
nhiên thực tế cũng có sự phân biệt, khi chưa gặt, khi hạt còn gắn trên “bông
lúa” thì gọi là “hạt lúa”, khi bị tuốt khỏi bông thì hạt đó gọi là “hạt thóc”.
Áp dụng vào ngữ cảnh bài “Gà mẹ chăm con” thì sử dụng từ “hạt
lúa” là không phù hợp bởi liên quan đến câu: “Khi hết lúa, gà mẹ gọi con ra khóm
chuối ở cuối vườn”.
“Lúa” là loại cây trồng, không phải hạt, nói “hết lúa” không có
nghĩa là “hết thóc”, vì thế ngữ liệu bài viết không phù hợp về khoa học, “lúa”
không phải thứ mà đàn gà tìm kiếm bởi trâu bò có thể ăn “lúa” chứ gà thì không.
Nếu bài viết được sửa: “… Ở đó có nhiều hạt thóc còn sót lại”
thì câu văn phía dưới: “Khi hết thóc … ” sẽ không gặp vấn đề về “sạn”.(hết trích).
HOÀNG TUẤN CÔNGPutin kêu Shoygu "sắp" ra một ít xe tăng,
rồi "sửa" lễ, mời thầy đến cúng, cầu bình
an cho vũ khí Nga trước khi lên đường.
(Ngữ liệu giả tưởng)
Ảnh minh hoạ: ST
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên):
-“SẮP
SỬA 1 đgt. (id). Sắp xếp sẵn (đồ đạc, hành lý…) Sắp sửa hành lý”.
Thực ra, sắp sửa là từ ghép đẳng
Tin Nga vỡ trận ở Kharkiv, khiến Putin "đần" người. Còn Shoygu thường ngày trông đã "đù", giờ càng trở nên tội nghiệp. Ảnh: ST |
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện
Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên):
-“ĐẦN
ĐÙ tt. Tỏ ra chậm chạp và kém cỏi trong hiểu biết và ứng xử. “Con gái trong làng họ cũng chê anh đần đù,
chả cô nào mơ tưởng đến” (Vũ Thị Thường)”.
Thực ra, đần đù là từ ghép đẳng lập [đồng đại]: đần là khờ dại, không khôn ngoan hoặc ở trạng thái đờ đẫn, không linh hoạt (như thằng ấy đần lắm; đần độn; đứng đần người ra); đù là dáng vẻ ngờ nghệch, chậm chạp, không tinh nhanh (như đù người; Trông vẻ mặt hắn ta đù lắm). Với câu “Con gái trong làng họ cũng chê anh đần đù…”, ta có thể thay thế “chê anh đần đù” bằng “chê anh đần” hoặc “chê anh đù”, đều ổn.
Ukraine càng đánh càng hăng; Nga càng đánh càng hung. Ảnh chế: ST |
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên):
-“HUNG
HĂNG tt. Tỏ thái độ sẵn sàng hành động một cách thô bạo để chống lại người
khác. Thói hung hăng. Hung hăng như con
trâu điên”.
Hung hăng là từ ghép đẳng lập [đồng đại]: hung 凶 nghĩa là hung bạo, dữ tợn một cách không kiềm chế (như hung tàn 凶殘; hung tính; Nó hung lên); hăng nghĩa là trạng thái tinh thần hưng phấn, quyết liệt, dữ dội (như hăng máu; hăng say; Cảm thấy hăng lên):