HOÀNG TUẤN CÔNG
Minh hoạ của Petrotimes |
“Trong ngôn ngữ dân gian, báo cô hay nuôi báo cô có nghĩa là nuôi người chỉ ăn hại, không giúp ích được gì. Trong gia đình, dòng họ, dù bị lên án là đồ báo cô nghĩa là kẻ vô tích sự nhưng không thể vất đi như một món đồ hư hỏng, thủng bẹp. Gia đình ấy, dòng họ ấy kể cả những bậc cha già, mẹ héo hoàn cảnh cơ hàn vẫn phải nuôi báo cô kẻ ấy…” (Bao giờ hết…báo cô? - petrotimes.vn - 2015).
Vì sao lại gọi là “nuôi báo cô”?
Sách Thành ngữ bằng tranh (NXB Kim Đồng, 2020), cho rằng “nuôi báo cô” chính là nuôi “bà cô” mà ra. Cụ thể, sách này giải thích:
“Báo cô: Ngày xưa, một người
đàn bà không có chồng, không có con (gọi là bà cô) thường để của cải cho một
người cháu nào đó. Khi người cô già, người cháu phải nuôi, tức phụng dưỡng bà,
gọi là nuôi báo cô. Báo cô chính là một nghĩa cử truyền thống tốt đẹp. Nhưng ở
đời cũng có những bà cô khó tính, gây phiền nhiễu cho con cháu, nên dần dần người
ta không thiện chí với công việc này nữa. Ý nói: Nuôi một người mà chẳng mang lợi
lộc gì cho mình cả”.
Thực ra, câu thành ngữ vốn là “Nuôi
bảo cô”, và nghĩa của “bảo cô”
hay “báo cô” hoàn toàn không như sách
Thành
ngữ bằng tranh giải thích.
Vậy “bảo cô” nghĩa là
gì? Hán
ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ
biên - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 1993) giảng:
“Bảo cô: Quy định của hình luật thời cổ đại, phàm
đánh người đến mức thương tích, trưởng quan sẽ xem xét tình tiết để xác định kỳ
hạn mà bị cáo phải trị liệu cho kẻ bị hại. Nếu đang trong kỳ hạn, mà nạn nhân bị
chết vì vết thương ấy, thì bị cáo sẽ bị khép vào tội chết; còn nếu nạn nhân
không chết, bị cáo bị định vào tội đánh người gây thương tích, gọi là nuôi bảo cô”. [古代刑律規定,凡打人致傷,官府視情節立下期限,責令被告為傷者治療.如傷者在期限內因傷致死, 以死罪論;不死,以傷人論.叫做保辜].
Theo đây, bảo 保 trong bảo cô 保辜 có nghĩa là nuôi nấng, chăm
sóc (dưỡng dục; phủ dưỡng - 養育;撫養, cùng nghĩa với bảo trong bảo mẫu 保母); còn cô 辜 nghĩa là tội, tội lỗi (cùng nghĩa với cô
trong vô cô 無辜 = vô tội).
Với mục nuôi báo cô, hầu như tất cả các cuốn từ điển tiếng
Việt chúng tôi có trong tay đều dừng ở chỗ giảng nghĩa từ vựng: nuôi người chỉ ăn hại, không
giúp ích được gì cho mình, chứ không cho biết sao lại
gọi là nuôi báo cô. Tuy nhiên, ở mục bảo cô, nhiều từ điển giải thích rõ ràng
như sau:
-Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của): “bảo
cô: chịu lãnh vì tội mình. Nuôi bảo
cô: chỉ nghĩa là chịu cơm thuốc mà nuôi người mình đã làm cho phải thương
tích nặng”.
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức), giảng:
“bảo cô: Nuôi-dưỡng, thuốc-thang
cho người bị mình làm cho mang bệnh, theo luật xưa”.
-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức) giảng rõ ràng
hơn: “bảo-cô
• Nuôi nấng người mà
mình đã đánh bị thương <> Nuôi như
nuôi bảo-cô (Luật cũ <> Kẻ đánh người trọng-thương, quan bắt phải
nuôi cơm phục thuốc, giữ cho người bị thương được yên-toàn thì không phải
tội)”; “ăn báo-cô • Được người ta nuôi báo-cô. Có nghĩa là nói ăn hại người ta (xem chữ bảo-cô đọc lầm là báo-cô)”.
Tội danh bảo cô, hay nuôi bảo cô đã được đề cập đến trong các
bộ luật Việt Nam thời phong kiến. Ví dụ:
-Điều 408 Luật Hồng Đức ghi rõ: “Nếu còn trong thời hạn nuôi bảo cô mà nạn
nhân chết thì phải tội kém tội đánh chết người một bậc. Nếu đã hết hạn nuôi bảo
cô hay còn trong hạn nuôi bảo cô,
nhưng vì nguyên cớ gì khác mà chết thì phải tội như là đánh người bị thương.”
-Điều 272 Luật Gia Long quy định: “Phàm nuôi bảo cô, trước hết phải giảo nghiệm
xem thương tích nặng hay nhẹ, đánh bằng tay chân hay vật gì khác, hoặc là đánh
bằng đồ nhọn, để định rõ về thời hạn nuôi bảo
cô và trách cứ phạm nhân phải chữa thuốc.” (Định chế pháp luật và tố tụng triều Nguyễn - TS Huỳnh Công Bá - NXB Thuận Hoá).
Về thời hạn nuôi bảo cô,
theo điều 272 Luật Gia Long, nếu đánh bị thương nhẹ bằng tay chân hay đồ vật
thì thời hạn nuôi bảo cô là 20 ngày;
nếu đánh bằng vật nhọn, hay dùng nước sôi hoặc lửa nóng làm bỏng người thì phải
nuôi bảo cô trong hạn 30 ngày; nếu
đánh người ta gãy xương, hoặc làm truỵ thai, hay huỷ hoại bộ phận thân thể của
người ta thì phải nuôi bảo cô trong
thời hạn 50 ngày.
Như vậy, bảo cô, hay nuôi bảo cô, vốn chỉ một tội danh mà phạm nhân phải bồi thường bằng hình thức cấp dưỡng cho nạn nhân. Về sau, nuôi báo cô trở thành một thành ngữ ví với
việc: nuôi người chỉ
ăn hại, ăn bám, không giúp ích được gì cho mình; chỉ kẻ ăn hại, ăn bám người khác mà chẳng giúp ích
được cho ai (như ăn báo cô).
Chuyện bảo cô thành báo cô đã phổ biến trong ngôn ngữ toàn
dân, và được từ điển ghi nhận, nên nuôi
báo cô hay nuôi bảo cô đều được
chấp nhận. Tuy nhiên, giải thích từ nguyên theo kiểu phỏng đoán, suy diễn, cho rằng “nuôi báo cô” là nuôi “bà cô”, lại là trường hợp dứt khoát
phải đính chính.
HTC/4/2021
Cảm ơn bác Tuấn Công. Ngày còn nhỏ, ở quê khi gặp phải đối tượng nào quá láo, quá thể đáng, các cụ hay nói (chỉ đạo cho con cháu...): "cứ đánh què, cho ngồi xó rồi nuôi báo cô...". Và từ đó đến nay trong tôi "hình thành" khái niệm "nuôi báo cô" là phải nuôi người nào đó không mang lại ích lợi gì nhưng không thể bỏ được.
Trả lờiXóa