(Phần trong ngoặc kép
sau số mục, in nghiêng là nguyên văn trong sách “Thành ngữ bằng tranh”; phần xuống dòng tiếp theo là nội dung trao
đổi của chúng tôi. Với những mục xét thấy không cần thiết trích dẫn, chúng tôi
xin lược bỏ phần giải nghĩa từ vựng):
“Nhân” 人 ở
đây có
nghĩa là người, không phải “nhân” là “nguyên nhân (nói tắt)”. Hán ngữ đại tự điển giải nghĩa:
-“nhân
sự: 4. phiếm chỉ đối tượng của ý thức con người. Như: nó đã hôn mê rồi, nhân sự bất tri [4.泛指人的意識的對象.如: 他昏迷過去了, 人事不知].
-“nhân
sự bất tỉnh: nói hôn mê bất tỉnh, mất tri giác.” [vị hôn mê bất
tỉnh, thất khứ tri giác - 人事不省:
謂昏迷不醒,失去知覺].
Như vậy, “nhân” trong “nhân sự” 人事 có tự hình là “人”, trong khi “nhân” trong “nguyên nhân” phải có tự hình là 因.
11 -“Hữu xạ tự nhiên hương:
Hương thơm của nhang khi đốt gọi là xạ. Xạ
bay đi tứ phía theo kiểu khuếch tán (tự nhiên) chứ không cần gió nên gọi hiện
tượng ấy là: Hữu xạ tự nhiên hương – Có xạ hương thì tự nhiên sẽ thơm khi đốt
(chẳng cần đến gió)”.
Không phải chỉ có "hương thơm của nhang khi đốt" mới được gọi là "xạ".
“Xạ” là từ Việt gốc Hán, mang nhiều nghĩa:
-Hán ngữ đại từ điển giảng: “xạ: 1. tên một loài thú, tục gọi là con hương chương, giống con hươu mà nhỏ,
không có sừng, chân trước ngắn, chân sau dài, giỏi nhảy nhót, đuôi ngắn, lông
màu vàng sẫm hoặc vàng xám. Ở khoảng giữa rốn và sinh thực khí của con đực có tuyến
nang có thể rỉ ra mùi xạ hương; 2. chỉ xạ hương; hoặc phiếm chỉ mùi thơm”. [麝:1.獸名.俗稱香獐.形似鹿而小,無角,前腿短,後腿長.善跳躍,尾短,毛黑褐色或灰褐色.雄麝臍與生殖器之間有腺囊,能分泌麝香; 2. 指麝香.亦泛指香氣].
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): xạ • dt. (động): Một giống chồn nơi rún (rốn) có chất thơm hăng, được
dùng làm thuốc trị bệnh. • (R) Chất thơm hăng ở dưới bụng hay trong nách một
vài loại thú cầm: Chuột xạ; xạ dơi. • Chất có mùi thơm: Hương xông xạ
ướp; hữu-xạ tự-nhiên hương”.
Như vậy, “xạ” trong câu “Hữu xạ tự nhiên hương” 有麝自然香, thuộc nghĩa 3 (chất có mùi thơm nói chung), và thành ngữ được
hiểu với nghĩa khái quát: nếu có chất thơm, thì tự nó sẽ phát tiết, toả ra mùi
thơm, chứ không cần phải giới thiệu hoặc khoe khoang. Soạn giả sách “Thành
ngữ bằng tranh” gắn câu “Hữu xạ tự
nhiên hương” với chuyện đốt nhang là hoàn toàn sai.
12 -“Muôn hình vạn trạng: Muôn chữ Nôm, cũng có nghĩa là vạn chữ
Hán. Hình chữ Nôm cũng là trạng chữ
Hán. Đây là hai vế đối một bên chữ Nôm,
một bên chữ Hán, có cùng một ý là: phong phú về hình vẻ, đa dạng về trạng
thái” (HTC nhấn mạnh).
Thực ra, “hình” 形 và “trạng” 狀 ở đây đều là chữ Hán. “Muôn hình vạn trạng” là dị bản của thành
ngữ gốc Hán “Thiên hình vạn trạng” 千形萬狀, mà Hán ngữ đại từ điển giảng là: “các thức, các dạng hình trạng. Hình
dung biến hoá nhiều” [千形萬狀: 各式各樣的形狀. 形容變化多].
Như vậy, không có chuyện “hình là chữ Nôm” và “đây là
hai vế đối một bên chữ Nôm, một bên chữ
Hán” như soạn giả khẳng định.
13 -“Thâm căn cố đế: Thâm căn: Cái
rễ ăn sâu. Cây có rễ ăn sâu xuống lòng đất thì sẽ rất vững chắc. Đế: bộ phận
phía dưới, để gìn giữ cho đồ vật đứng vững. Cố đế: Cái đế có từ lâu”.
“Đế” 柢 ở đây có nghĩa là “rễ”, chứ không phải cái đế “giữ gìn đồ vật cho vững”; “cố” 固 nghĩa là bền vững, không phải
“cố” 故 là “có từ lâu”; “cố đế” 固柢 là “rễ bền”, chứ không phải “cái cái đế có từ lâu”. Thành ngữ gốc Hán “Thâm căn cố đế” 深根固柢 có nghĩa là “Gốc sâu rễ bền”, không gì lay chuyển được.
14 -“Thất điên bát đảo: Đảo
là từ láy của điên. Bảy đen(sic) tám
đảo nghĩa đen là nhiều lần điên đảo. Ý nói: Lao đao nghiêng ngả”.
Giảng “đảo là từ láy
của điên”, nhưng “điên” có nghĩa
là gì, lại không thấy giải thích cụ thể.
“Điên đảo” 顛倒 là từ ghép đẳng lập gốc Hán:
“điên” 顛 có
nghĩa là “đảo” (vị trí); mà “đảo” 倒 cũng có nghĩa là “điên” (hoán
đổi vị trí). Theo đây, “đảo” không phải
là “từ láy của điên”, mà là quan hệ đẳng
lập với “điên”. Ví dụ: “điên đảo hắc
bạch” 顛倒黑白 = trắng đen lẫn lộn.
Thành ngữ gốc Hán “Thất điên bát đảo” 七顛八倒 (dị bản “Điên tam đảo tứ” 顛三倒四) chỉ tình trạng bối rối, hỗn
loạn, không còn trật tự gì nữa. Trong tiếng Việt, thành ngữ này cũng được hiểu
tương tự. Hoàng Phê-Vietlex giảng: “thất
điên bát đảo • 七顛八倒: ở tình trạng hết sức bối rối, hoảng loạn. “…Ta quyết làm cho
họ thất điên bát đảo một phen, cho hắn biết phủ Từ Sơn ta không phải loại đớn
hèn.” (Kim Lân)”.
15 - “Trúc chẻ ngói tan: Lúc
chẻ tre, chẻ trúc, cây vốn sẵn có thế năng nên giải phóng năng lượng, tạo thành
sức mạnh lớn. Khi ngói bị tác động mạnh tới mức vỡ tan, cũng bắn ra thành nhiều
mảnh. Nếu vỡ hàng loạt có thể gây thương tích diện rộng. Cả chẻ tre và ngói tan
đều gây tiếng động lớn”.
Soạn giả không hiểu nghĩa đen nên giải thích loanh quanh và sai
hoàn toàn. “Trúc chẻ” và “ngói tan”
chưa bao giờ được xem là hai thứ vũ khí gây sát thương.
Thành ngữ “Trúc chẻ ngói tan”
là sự kết hợp giữa hai thành ngữ gốc Hán “Thế như phá trúc” 勢如破竹 (Thế mạnh như chẻ tre) và “Thổ băng ngoã giải” 土崩瓦解 (Đất
lở ngói tan; dị bản “Băng tán ngoã giải” 冰散瓦解 = Băng tan,
ngói vỡ).
Khi chẻ tre, người ta dùng dao bổ đôi, chẻ qua vài đốt phần gốc, rồi
chân dẫm nửa này, tay nâng nửa kia lên, cây tre cứ thế toác đôi, nổ đôm đốp tựa
thế tấn công áp đảo, không gì cản nổi. Còn khi viên ngói vỡ thì cũng tan tành
thành mảnh vụn, không cách gì hàn gắn, cứu vãn. Hán ngữ đại từ điển giảng:
-“phá trúc: 1. Chẻ tre, ví với việc lần lượt tiêu diệt đối
phương, thuận lợi không chút trở ngại; 2-Ví với thế trận nhanh chóng bị phá vỡ,
diệt vong”. [破竹: 1. 劈竹子.喻循勢而下, 順利無阻; 2. 喻迅速破亡的形勢].
-“ngói tan: viên ngói tan vỡ, tỉ dụ sự sụp đổ hoặc
chia xé, phân ly; 2. Chỉ sự khiến lực lượng đối phương tan vỡ”. [1.瓦片碎裂.比喻崩潰或分裂, 分離; 2. 謂使對方的力量崩潰].
Như vậy, không có chuyện “trúc” và “ngói” là hai thứ “vũ khí”, mà khi “trúc chẻ” thì “vốn sẵn có thế năng nên giải phóng năng lượng, tạo thành sức mạnh lớn”; còn “ngói tan” thì “bắn ra nhiều mảnh” và “gây thương tích diện rộng” như giải thích của soạn giả.
Mục "Trúc chẻ ngói tan" |
16 -“Dùi mài kinh sử: Dùi là một dụng cụ nhỏ, học trò ngày xưa thường
dùng để đóng sách. Dùi được mài rất công phu, cho nên là biểu hiện của sự cần
cù, chăm chỉ”.
“Dùi mài” ở đây là “dùi”
và “mài”, chứ không phải là mài cái dùi.
“Dùi mài” chỉ hai công
việc “dùi”/“giồi” (khoan cắt, đánh
bóng) và “mài” (chà xát cho mòn, cho
nhẵn), ý chỉ sự công phu rèn luyện, học tập. “Việt Nam tự điển” (Lê Văn Đức) giảng: “giồi • đt. C/g. Giùi, tô,
trét vô rồi chà mạnh cho láng, cho bóng: Giồi bộ ván, giồi phấn. • (B)
Trau-tria, ôn-nhuần: Giồi-mài kinh-sử”.
“Dùi mài” trong tiếng Việt
tương tự như “thiết tha” 切磋 (cắt mài), hoặc “trác ma” 琢磨 (mài dũa), ý chỉ sự tu dưỡng
đạo đức, nghiên cứu nghĩa lý, học vấn một cách công phu trong tiếng Hán.
Bởi soạn giả hiểu lầm “dùi mài” thành “mài dùi” nên mới giảng “dùi được mài rất công phu”. Tuy nhiên, nếu
nói về độ “công phu” thì phải là “mài
kim”, chứ không phải “mài dùi”.
Tương truyền, thời niên thiếu,
Lý Bạch học hành dở dang, bỏ chuyện trường ốc để đi du ngoạn. Dọc đường
Lý Bạch thấy có bà già nọ đang mài một cái chày sắt. Thấy việc lạ lùng, Lý Bạch
dừng lại: “Xin hỏi, cụ mài cái chày này làm gì vậy ạ?”. Bà cụ thản nhiên đáp:
“Làm cái kim vá quần áo”. Lý Bạch chợt tỉnh ngộ, bèn lập tức quay lại, gắng
công học tập và trở thành một đại thi hào đời Đường. Về sau “Ma chử
thành châm” 磨杵成針 (Mài sắt nên kim) ví với
sự gắng sức, kiên trì bền chí thì sẽ thành công (Hán ngữ đại từ điển: “磨杵成針:把鐵棒磨成細針.相傳 李白 少時讀書,未成棄去,道逢老媼磨杵,白問其故,曰:“作針.”白感其言,遂卒業.後因以“磨杵成針”比喻立志不移,功到自然成].
Vì “mài dùi” dễ hơn “mài kim”, nên có câu tục
ngữ chế “Có công mài sắt có ngày nên…dùi” là vậy.
Mục "Dùi mài kinh sử" |
17- “Nghe hơi nồi chõ: Nồi chõ là để thổi xôi. Xôi chín bằng hơi nước của nồi chõ. Người ta muốn
biết xôi chín chưa thì phải mở vung nhìn xem hơi nồi chõ lên có nhiều và đều
không. Còn chỉ nghe thôi mà không nhìn trực tiếp thì kiểm tra không thể chính
xác được”.
Người ta lấy thời gian đun nấu để xác định đồ ăn đã được hấp/nấu chín hay chưa,
chứ không phải quan sát qua hơi nước bốc lên. Mặt khác, chỉ cần nồi chõ sôi một
lúc, đủ làm nóng đều gạo, thịt phía trên, là bắt đầu nhìn thấy hơi nước/khói bốc
lên, phì ra, chứ không phải đợi đến lúc xôi chín mới thấy hơi. Ấy là chưa nói đến
việc nếu cần biết “hơi có bay lên” không, người ta chỉ cần quan sát hơi khói bên
ngoài, mà không cần phải “mở vung nhìn xem hơi nồi chõ lên có nhiều và đều không".
Thực ra, “nồi chõ” không
phải chỉ dùng để đồ xôi, mà còn xôi/hấp nhiều món ăn khác; “nghe” ở đây không phải là cảm nhận âm
thanh, tiếng động bằng thính giác; “hơi”
cũng không phải là hơi nước, hơi khói bốc lên từ nồi chõ (nhìn thấy bằng mắt),
mà “hơi” có nghĩa là “mùi”. “Nghe hơi” là đánh hơi, nhận biết mùi gì bằng khứu
giác:
-“Đại Nam quấc âm tự vị” (Huình Tịnh
Paulus Của) ghi nhận: “nghe mùi • biết mùi”;
-“Việt Nam tự
điển” (Lê Văn Đức) giảng: “nghe • Nhận được mùi bằng mũi: Nghe hôi-hôi, nghe có
mùi thúi”; “nghe hơi • đt. Đánh hơi, nghe mùi phảng-phất: Nghe hơi tanh, lằng bay tới. •
(B) Nghe phỏng, không đích-xác: Nghe hơi rồi nói phỏng”.
-“Việt Nam tự điển” (Hội Khai trí): “hơi • 1 Khí, mùi <> Hơi đất, hơi
nước, hơi bùn, hơi khó ngửi. Văn-liệu: Quen hơi bén tiếng. Nghe hơi
nồi chõ…”.
Điều thú vị là
trong tiếng Hán, chữ “văn” 聞, ngoài nghĩa là “nghe thấy”, cũng còn có nghĩa là “ngửi thấy”.
Vì là xôi/nấu thức ăn bằng hơi nước nóng bốc lên, nên mùi thức ăn từ chõ
cũng xông lên, lan toả rất mạnh. Do không được tận mắt nhìn thấy thức ăn trong
nồi chõ, chỉ “nghe hơi”, nghe mùi thoang thoảng, như xa như gần
trong gió, nên rất khó biết nó toả ra từ hướng nào, nhà nào, và đích xác nó là
mùi của loại thức ăn gì. Ví như tuy cảm nhận là mùi thơm của xôi nếp, nhưng thực
tế không phải xôi, mà là bánh nếp; không phải đến từ nhà ông B, mà là từ nhà bà
A. Thậm chí, mùi “xôi” ấy, thực chất chỉ là hương của nắm lá cây cơm nếp, được
hấp trong nồi để tạo mùi. Các nói của thành ngữ mang tính chất chế giễu, bởi dù
có phỏng đoán thế nào, thì tất cả cũng chỉ là “nghe hơi”, hóng chuyện, ngửi mùi thức ăn của nhà khác mà đoán già
đoán non mà thôi! (chúng tôi đã có bài phân tích câu "Nghe hơi nồi chõ" đăng trên Tuấn Công Thư phòng và báo "Người lao động" từ 1/4/2018).
Trên đây là một số sai sót điển
hình trong sách “Thành ngữ bằng tranh”.
Ngoài ra, hãy còn nhiều mục có vấn đề về giảng giải nghĩa đen thành ngữ, như: “Ăn bớt ăn xén”, “Ăn mày đòi xôi gấc”, “Chết
như ngả rạ”, “Chỉ tay năm ngón”, “Cùng hội cùng thuyền”, “Bán bò tậu ễnh ương”,
“Dây mơ rễ má”, “Dốt đặc cán mai”, “Lẩn như chạch”, “Mẹ tròn con vuông”, “Môn
đăng hộ đối”, “Nhìn gà hoá cuốc”, “Run như dẽ”,…
Nếu ứng với hơn 300 thành ngữ,
thì số lỗi cụ thể trong cuốn sách chiếm tới hơn 10% - một tỉ lệ sai sót quá lớn
đối với một cuốn sách được NXB Kim Đồng giới thiệu là “từ điển bỏ túi”, “giải thích dễ hiểu
nhất”, “thông tin nền, chuẩn”, “có thể được sử dụng như một cuốn từ điển
thành ngữ mini trong gia đình và nhà trường”.
Vì bài viết đã dài, nên chúng tôi xin tạm dừng
tại đây.
HTC/4/2021
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét