2 thg 8, 2025

CHÍNH TẢ “NUỐT CHỬNG” VÀ “NUỐT TRỬNG”

 

Putin tưởng sẽ nuốt trửng được Ukraine 
trong vòng 24 giờ
      HOÀNG TUẤN CÔNG

Vua Tiếng Việt (25/4/2025) yêu cầu “Hãy viết lại cho đúng từ sau: nuốt trửng”. Người chơi viết lại thành “nuốt chửng”, MC Xuân Bắc liền xác nhận là đúng, và đáp án hiện trên màn hình hai chữ “nuốt chửng”.

Cứ theo như trên thì viết “nuốt trửng” là sai chính tả. Tuy nhiên, thực tế không phải vậy.


Hàng chục cuốn từ điển chúng tôi có trong tay ghi nhận cả hai cách viết “nuốt chửng” và “nuốt trửng”:


-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên – Vietlex) mục “nuốt trửng”, ghi chú đây là cách viết “cũ hoặc phương ngữ”, và hướng dẫn xem “nuốt chửng”. Như vậy, nhà biên soạn từ điển vẫn ghi nhận “nuốt trửng” nhưng hướng tới cách viết phổ biến hơn là “nuốt chửng”.


-Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức - 1931) thu thập “nuốt trửng”, với nghĩa “Nuốt vật gì mà không nhai”, và lấy ví dụ “Cho viên thuốc vào mồm mà nuốt trửng”. Sách này không xếp “nuốt chửng” một mục riêng, nhưng ở mục “chửng”, giảng là “Ngay thẳng, không vướng-víu”, và lấy ví dụ “Nuốt chửng, bổ chửng.”.


-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức – 1970), không ghi nhận “chửng”, “nuốt chửng”. Ở mục “trửng”, sách này giảng là “Trộng, gọn, trọn một lần”, và lấy ví dụ “Con chó nuốt trửng miếng thịt; việc không xong mà nuốt trửng ngàn bạc!”. Mục “nuốt trửng”, giảng là “Nuốt trộng”, và chú như “Nuốt tươi và nuốt trôi”.


-Việt ngữ chánh tả tự vị (Lê Ngọc Trụ – 1967) chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”, không có “nuốt chửng”.


-Tự điển tiếng Việt phổ thông (Đào Văn Tập – 1951), chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.


-Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị – 1951), cũng chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.

 

-Tự điển Annamite - Francais (LM. Génibrel – 1898), cũng chỉ ghi nhận từ “nuốt trửng”.


Đáng chú ý, nhiều sách thu thập từ “nuốt trộng” với nghĩa giống như “nuốt chửng”, “nuốt trửng”. Ví dụ, Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê – Vietlex) giảng “nuốt trộng” là “nuốt chửng” và lấy ví dụ “thằng bé nuốt trộng cả miếng bánh”. Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức) cũng ghi nhận “nuốt trộng” và giảng là “Cũng nghĩa như nuốt trửng”. 


Nhiều cuốn từ điển cổ chỉ ghi nhận “nuốt trộng” chứ không phải “nuốt trửng”, như: Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của – 1885, 1896); Tự điển Annam - Latin (GM. Taberd – 1883); Tự điển Francais - Anamite (Trương Vĩnh Ký – 1884).


Đáng chú ý, Đại Nam quấc âm tự vị giảng “trộng” là “Lớn, khá lớn và còn nguyên”; “trộng trộng” = “Lớn vừa, không phải nhỏ”; “trộng trơn” = “Lớn mà nguyên vẹn. Hột gạo trộng trơn”; “Trộng hột” = “lớn hột”; “trộng đứa” = “Lớn đứa, không phải nhỏ”; “Ăn cơm trộng” = “Ăn cơm nguyên hột; ăn lấy một mình khỏi phải nhai. (Con thơ)”; “Nuốt trộng = “Nuốt vật gì lớn mà không nhai trước”.


Như vậy, căn cứ vào sự xuất hiện của từ ngữ qua các cuốn từ điển, thì “trộng” (nuốt trộng) là sớm nhất, sau đó đến “trửng”, “trẩng” (nuốt trửng; nuốt trẩng) và muộn nhất là “chửng” (nuốt chửng).

Vậy, xét nghĩa từ nguyên, thì trộng↔trửng↔chửng từ đâu mà ra?


Câu trả lời là “trộng” vốn từ chữ “trọng” mà ra.

Chữ trọng (một âm đọc khác là “trùng” trong từ “trùng lặp”) có một nghĩa là “lớn” (nghĩa thứ 22 mà Hán ngữ đại từ điển đã giảng). “Nuốt trọng/trộng” là nuốt miếng lớn, để nguyên không nhai. Trộng hột/trọng hạt = hột lớn. Hiện nay người ta vẫn nói là chọn lấy cái “trọng”, tức là chọn cái/cục/miếng/hòn lớn nhất trong số những thứ hỗn độn bị băm, cắt nhỏ, hoặc bị vỡ vụn ra. Đại Nam quấc âm tự vị có dẫn ngữ liệu“Ăn cơm trộng” = “Ăn cơm nguyên hột; ăn lấy một mình khỏi phải nhai. (Con thơ)”. Chữ “trộng” trong “ăn cơm trộng” đồng nghĩa với chữ “lống” trong “ăn cơm lống” (phương ngữ Thanh Hoá), chỉ trẻ con đã ăn được cơm hột, không phải nhai nữa; “lông lống” có nghĩa là đã ở mức “lơn lớn”, “khá lớn” rồi (đồng nghĩa “trồng trộng/ trộng trộng).


Trong Đại Nam quấc âm tự vị, mục “trộng” được ghi bằng chữ trọng  , và Huình Tịnh Paulus Của chú là “Nôm”. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, chữ “trộng” do “trọng” mà ra. Bởi thế, thực chất “trọng” ở đây là Hán (chữ) chứ không phải Nôm. Mối quan hệ ONG↔ÔNG (trọng ↔ trộng) ta thấy trong rất nhiều trường hợp khác như thả rong↔thả rông; long nhong↔lông nhông; rọng rãi↔rộng rãi; cọng trừ↔cộng trừ,…


Từ “nuốt trọng/trộng”, biến thành “nuốt trẩng”, “nuốt trửng” rồi “nuốt chửng” (hiện vẫn còn lưu giữ trong tiếng Thanh Hoá). Mối quan hệ ÔNG↔UNG, thì ta vẫn gặp trong phương ngữ Thanh Hoá như đì đồng↔đì đùng; đến cồng↔đến cùng. Còn mối quan hệ ỤNG↔ỦNG thì ta có chựng lại↔chững lại; sựng người↔sửng người; vụng nước-vũng/vổng nước…

Còn mối quan hệ TR↔CH thì cũng có thể dẫn ra rất nhiều ví dụ, như trà↔chè; trương↔chương; trì↔chày; trực↔chực,…


Như vậy, “nuốt trộng”, “nuốt trẩng”, “nuốt trửng” là cách nói và viết được ghi nhận sớm nhất, sau đó mới đến “nuốt chửng”.


Hiện nay, cách nói và viết “nuốt chửng” được xem là phổ thông, nhưng không vì thế mà xem cách viết “nuốt trửng” là sai chính tả, vì sai chính tả và cách viết cũ/phương ngữ/ít dùng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Theo đây, “nuốt chửng” và “nuốt trửng” phải được xếp vào trường  hợp “lưỡng khả” (cả hai cách viết đều được chấp nhận).


Hoàng Tuấn Công/6/2025

-------

Bài viết có sử dụng tư liệu từ hai cuốn “Việt ngữ chánh tả tự vị” (Lê Ngọc Trụ); “Tự điển Francais - Anamite (Trương Vĩnh Ký), do bác Phạm Ngọc Hiệp chia sẻ qua bình luận. Trân trọng cảm ơn bác.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét