29 thg 5, 2014

VIỆT NAM "THUỘC TRUNG QUỐC" BAO GIỜ ?

      Hoàng Tuấn Phổ
Quỷ môn quan (Chi Lăng) với giặc Tàu xâm lược
Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn
Báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày 24-5-2014 đưa tin: Hãng thông tấn RIA Novosti ngày 19-5-2014 đăng bài của ông Dmitry Kosirev, một nhà bình luận về chính trị của Nga viết: “Việt Nam là vùng đất thuộc Trung Quốc từ cách đây 2.000 năm”, và nhiều điều bịa đặt, xuyên tạc chung quanh vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, khiến dư luận Việt Nam phẫn nộ!

23 thg 5, 2014

“VIỄN VÔNG” hay “VIỂN VÔNG” ?


Sự biến đổi của chữ "Vọng"
Hoàng Tuấn Công

-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) viết: “Viển vông: tính từ, không thiết thực, hết sức xa rời thực tế. mơ ước viển vông; toàn nói những chuyện viển vông. đồng nghĩa: hão huyền”.
-Từ điển chính tả (dành cho học sinh)-NXB Từ điển bách khoa-Trung tâm từ điển học: “Viển: viển vông: diễn giả nói những điều viển vông”.
-Từ điển chính tả tiếng Việt-Nguyễn Trọng Báu-NXB Giáo dục-2013: “Viển: viển vông (Xa rời thực tế, chẳng thiết thực gì cả: suy nghĩ viển vông)
-Từ điển từ láy tiếng Việt-Viện Khoa học xã hội Việt Nam-Viện ngôn ngữ học-NXB Khoa học xã hội: “Viển vông tính từ. Không thiết thực và rất xa thực tế. Chuyện viển vông. Mơ ước viển vông”.
-Từ điển Việt Hán-GS Đinh Gia Khánh hiệu đính-NXB Giáo dục-2003: “Viển vông: 虚幻的(hư ảo đích).
Như thế, rất nhiều sách từ điển tiếng Việt viết là “viển vông” (viển dấu hỏi) chứ không phải “viễn vông” (viễn dấu ngã).
Thực ra, từ “viển vông” là biến âm của “viễn vọng” nghĩa là trông xa:
-Chữ “vọng” nghĩa gốc là nhìn ra nơi xa. Giáp cốt văn: chữ “vọng” giống như một người đang đứng, mắt mở to nhìn ra xa. Kim văn: thêm hình mặt trăng, thể hiện rõ một người đang “viễn vọng”- nhìn xa.
-Ngoài nghĩa đen là nhìn xa, trong Hán văn, từ “viễn vọng” có nghĩa bóng là “ảo tưởng”, trông chờ vào cái gì đó quá xa vời, không thực tế. Từ điển Việt-Hán (sách đã dẫn) cho ta biết: “Viễn vọng: nghĩa 1. 遠望 viễn vọng - nhìn xa; kính viễn vọng 遠望鏡 (viễn vọng kính) Nghĩa 2. 幻想 -ảo tưởng”.
-Từ “ảo tưởng” được Từ điển tiếng Việt giải thích: “có ý nghĩ viển vông, mơ hồ, thoát li hiện thực: ảo tưởng về một thế giới hoàn mĩ”.
-Việt Nam tự điển (Hội khai trí tiến đức-1932):
+Viển-vông: Vu vơ, không có bằng cứ gì cả. Câu chuyện viển vông.
+“Viễn-vọng: trông xa. Đứng trên lầu viễn-vọng. Nghĩa bóng: mong mỏi chuyện xa xôi: Hay viễn-vọng những chuyện viển-vông”.

Như thế, ta có mối liện hệ: Viễn vọng = Ảo tưởng = viển vông. Đặc biệt, Việt Nam tự điển-cuốn sách xuất bản đầu thế kỷ XX cho ta biết thêm: thời bấy giờ đã có sự biến âm “viễn vọng” thành “viển vông”. Tuy nhiên, người ta chưa quên hẳn từ “viễn vọng” nên còn được Việt Nam tự điển ghi nhận: “Viễn vọng: Nghĩa bóng: mong mỏi chuyện xa xôi”. Đáng chú ý, cái ví dụ có vẻ “trái khoáy” “Hay viễn-vọng những chuyện viển-vông” của Việt Nam tự điển cho ta thấy “viển vông” bắt đầu Việt hóa: viễn biến âm thành viển; vọng biến âm thành vông, dần dần thay thế hoàn toàn cho từ Hán Việt “viễn vọng” (Đây là hiện tượng dùng một từ Hán Việt cũ để giải thích cho một từ Việt hóa hoặc từ thuần Việt mới, theo kiểu như “ngày sinh nhật”). Để rồi thay vì nói: “Hay viễn-vọng những chuyện viển-vông” người ta sẽ nói: “Chỉ nói toàn những chuyện viển vông”. Và hơn nửa thế kỷ sau, người ta đã quên hẳn từ “viễn vọng” với nghĩa bóng “mong mỏi chuyện xa xôi” của nó và mặc nhiên công nhận duy nhất từ “viển vông”. Đến mức Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học) xếp “viển vông” vào diện “từ láy tiếng Việt”. Qua đó cho rằng trong từ ghép “viển vông” có một yếu tố  không có nghĩa, hoặc cả hai đều không có nghĩa.

Vậy, bây giờ ta phải theo cách viết nào? “Viển vông” hay “viễn vông”. Cách giải quyết hợp lý là theo số đông = viển vông. Tuy nhiên, với các nhà biên soạn từ điển, khi giải thích nghĩa từ “viển vông” nên chú thích nguồn gốc của từ và đưa ra lời khuyên dùng thống nhất là “viển vông” thay vì “viễn vông”, tránh băn khoăn, thắc mắc cho mọi người mỗi khi nói và viết.

                                                                                            HTC/5/2014


21 thg 5, 2014

HẢI GIÁM, NGƯ CHÍNH CỦA TA HAY CỦA TÀU ?

                         

                                    Hoàng Tuấn Công

Tàu Hải cảnh Trung Quốc tấn công tàu Kiểm ngư Việt Nam
bằng vòi rồng

Nhiều người sẽ có câu trả lời ngay. Thậm chí bực mình: “Của Tàu chứ còn gì nữa, chẳng lẽ lại của Ta !?” Tuy nhiên, trong thực tế, không phải ai cũng hiểu biết được như vậy. Cách đây một năm, Báo Giáo dục Việt Nam (Giáo dục.net.vn) thứ ba ngày 16/4/2013 có bài: “Sinh viên Việt Nam 'mù tịt' về tàu hải giám, ngư chính Trung Quốc?!” Bài báo cho biết:

18 thg 5, 2014

CHỐNG GIẶC TÀU, NHỚ LÊ THÁI TỔ



TCTP: Giặc Tàu đang nhe nanh múa vuốt, diễu võ, dương oai ngoài biển Đông. Chúng ngang ngược, ngạo mạn chẳng khác nào cha ông chúng thuở xưa. Ấy vậy mà Tập Cận Bình dám trơ trẽn xảo ngôn: "Người Trung Quốc không có gen xâm lược" (!) Chẳng nhẽ họ Tập không biết rằng: ở Việt Nam, từng ngọn núi, con sông, làng bản mấy ngàn năm qua còn lưu dấu những trận chiến không cân sức của một dân tộc nhỏ bé dám đứng lên chống lại, và dạy cho "Thiên triều" các người bao bài học cay đắng, nhục nhã đó sao ? Những ngày này, cả dân tộc đang sục sôi khí thế chống giặc Tàu xâm lược. TCTP xin giới thiệu lại bài Chúc văn của Nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ viết nhân Kỷ niệm 580 năm giải phóng thành Đông Quan (17/5/2008)

15 thg 5, 2014

TRƯỜNG SA-HOÀNG SA

MÁU THỊT CỦA VIỆT NAM


Hoàng Tuấn Công


Chủ quyền biển đảo bị xâm phạm. Nước Việt đang trong những ngày sôi sục lòng yêu nước. HTC tôi lòng cũng như lửa đốt, chẳng còn bụng dạ nào mà ngồi lại với chữ nghĩa. Chiều qua (14/5), thân phụ HTC ở quê gọi điện ra nói: “Bố đang đọc lại “Vua Lê Đại Hành”, con chuẩn bị trích đăng lại mấy chương Lê Hoàn đánh giặc Tống xâm lược. Đợt này ta cũng phải hưởng ứng, góp thêm tiếng nói...”. “Vua Lê Đại Hành” là tiểu thuyết lịch sử của Thân phụ HTC, xuất bản cách đây đã mấy chục năm. 

12 thg 5, 2014

ĐỌC LẠI “LỜI CON HỔ Ở VƯỜN BÁCH THÚ”(*)



         Hoàng Tuấn Công 


Cứ mỗi lần đọc lại "Nhớ rừng" tôi lại nghĩ vẩn vơ: Dường như bằng khả năng đặc biệt nào đó, ông Thế Lữ đã hiểu được ngôn ngữ  của vị Chúa sơn lâm “sa cơ lỡ vận”. Và qua chấn song sắt, Ngài đã nhờ ông chép lại toàn bộ bài thơ có một không hai này để gửi đến loài Người. Thế Lữ chỉ chú thêm với độc giả một dòng ngắn gọn: “Lời con hổ ở vườn bách thú” dưới tiêu đề bài thơ “Nhớ rừng” mà thôi. Bằng không, tôi cũng ngờ rằng, Thi sĩ tài hoa này từng có “phút giây hoá hổ” trong kiếp bị giam cầm, tù ngục. Và khi trở lại làm Người, ông đã “kiếm được” những lời thơ bất hủ đó. Nếu không, tại sao tôi lại được đọc những “lời tự sự” của một Ông Hổ bị “sa cơ nhục nhằn tù hãm” hay đến vậy ? “Hổ” đến vậy ? !

Bài thơ “Nhớ rừng” (1936) của Thể Lữ được xem là tâm sự của một tầng lớp người chán ghét cảnh tù túng và những “tầm thường giả dối”. Họ đau khổ trong cảnh  ngục tù thân xác, tư tưởng, muốn phá bỏ gông cùm xiềng xích để về với thế giới tự do, nhưng đành bất lực, đắm chìm trong quá khứ kiêu hùng, bế tắc không lối thoát.
 Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh hổ oai hùng, ngạo mạn, thung dung giữa “cảnh sơn lâm bóng cả cây già” hay đang “nằm dài trông ngày tháng dần qua” tôi lại thấy câu chữ trong bài thơ dậy sóng theo từng bước chân của Ngài.  Dưới con mắt của Chúa sơn lâm, những kẻ đang nắm vận mệnh của Ông trở nên bé nhỏ, tầm thường, đáng thương hại, đáng khinh bỉ làm sao ! Họ đáng khinh, đáng ghét, đáng thương bởi họ bé nhỏ mà “ngạo mạn”. Không hiểu gì về thế giới tự nhiên, quy luật tự nhiên, “dương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm”:

LỄ TRAO GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM


TẶNG CÁC TÁC PHẨM VIẾT VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
         
Tác giả Lê Xuân Đức (ngoài cùng bên phải) 

HTC: Tuấn Công Thư Phòng xin đăng lại bài viết này để độc giả hiểu rõ hơn về giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam trao cho "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh"  của Lê Xuân Đức.




Hướng tới kỷ niệm 123 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, sáng ngày 13/5/2013, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Lễ trao giải thưởng văn học hưởng ứng cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT, báo chí về chủ đề "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" tại trụ sở Hội (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội).

11 thg 5, 2014

"Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức có đáng để Hội nhà văn Việt Nam trao giải?


                                    

  Hoàng Tuấn Công


Kết thúc phần cuối của bài “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Nhà phê bình Lê Xuân Đức ?” đăng trên TCTP, chúng tôi viết thêm mấy dòng: Cuối cùng, chúng tôi tự hỏi: Không biết có nên “để mắt” đến 9 tác phẩm viết về thơ Bác của Lê Xuân Đức hay không ? Đặc biệt là cuốn sách được trao giải cao của Hội nhà văn Việt Nam "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" trong cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức. 

8 thg 5, 2014

CÁI ĐẦU LÂU MẤT TÍCH



Hoàng Tuấn Phổ
Bình Định vương ngồi buông thõng chân trên hòn đá nổi tự nhiên ở đầu thung Nai. Quanh ông, các tướng văn, võ đứng quây quần. Một anh lính hối hả đi tới chỗ Bình Định vương:
-Trình nhà Vương. Chúng con tìm mãi vẫn không thấy đầu thằng Phùng Quý ở đâu cả !
Bình Định vương khẽ nhếch mép cười:
-Tìm mãi vẫn không thấy ! Hắn có phép thần thông hay các ngươi trông gà ra cuốc ?

7 thg 5, 2014

ĐÔI ĐIỀU NHẬN XÉT VỀ “NHỮNG NHÀ KHOA BẢNG XỨ THANH”

CỦA NHÓM PGS-TS HÀ ĐÌNH ĐỨC

Lối vào đền thờ Nguyễn Văn Nghi
       Hoàng Tuấn Phổ

Do nhu cầu thực tế, loại sách Quốc ngữ về Các nhà khoa bảng Việt Nam đã được xuất bản nhiều, tiêu biểu có nhóm Ngô Đức Thọ, nhóm Bùi Hạnh Cẩn… Thông thường, sách biên soạn lại, quyển sau phải tiến bộ hơn quyển trước, vì ít nhiều có kế thừa, đồng thời đính chính những sai lầm, thiếu sót của quyển trước. Rất tiếc, gần đây, sách Những nhà khoa bảng xứ Thanh của nhóm PGS -TS Hà Đình Đức (NXB Thanh Hóa 2011) không đi theo “luật” thông thường ấy.

4 thg 5, 2014

“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Lê Xuân Đức ?



         
Cuốn sách bị Lê Xuân Đức đạo văn
Hoàng Tuấn Công


Phần IV

Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm

Chuyện “đạo văn” của Lê Xuân Đức đã quá rõ. Nhưng, cái hay, cái đúng Lê Xuân Đức đạo đã đành. Đằng này, những sai sót nhầm lẫn, thiếu chính xác của người ta, ông  Lê Xuân Đức cũng cứ “xài” liền liền.
1.Bài Bạn tù họ Mạc. Hai câu:“Xa đại pháo” tài chân vĩ đại, Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.
Ông Lê Xuân Đức giảng giải: “Xa đại pháo là một phương ngữ ở Quảng Đông (chứ không phải như chú thích của Viện văn học trong bản dịch năm 1983) có nghĩa là một tấc lên trời, huênh hoang khoác lác. Phương ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông “Đại suy đại lôi” nghĩa là bốc phét quá chừng, quá mức”.
Xin trao đổi với Nhà phê bình Lê Xuân Đức mấy điểm sau đây:

BẮT ẾCH



                    Hoàng Tuấn Phổ

 Ếch sống trong hang sâu. Người ta quan sát thấy dấu ngón chân ếch in ở cửa hang mà đoán biết trong hang có ếch trú ẩn. Nếu cửa hang hẹp, phải đào cho rộng. Loại thuổng dùng đào hang ếch, cán nhỏ, ngắn, mặt lưỡi cong cong lòng mo, đầu lưỡi mỏng, rộng chừng 3cm. Ếch nghe động lùi vào sâu hơn, thu mình nằm ép tận cuối hang. Nếu thấy rõ ếch, người ta thò tay vào nắm “thắt lưng” ếch lôi ra. Phải đề phòng rắn độc chui vào hang ăn thịt ếch rồi cuộn tròn nằm nghỉ luôn trong đó. Người ta dùng câu thay cho tay. Đó là một thứ móc, lưỡi giống câu có ngạnh, cắm vào cán dài chừng 50cm, to bằng ngón tay cái. Người bắt ếch cầm móc câu thọc thẳng vào hang kéo con ếch ra ngoài.

“Nhật ký trong tù và lời bình” Hay trò đùa của Nhà phê bình Lê Xuân Đức ?

                                                                 

Hoàng Tuấn Công

Phần III


     Không có chữ dạy người biết chữ

          Ở phần I và phần II bài viết, bạn đọc đã được biết đến chuyên gia số 1 về thơ Bác, Lê Xuân Đức chữ tác đánh chữ tộ, không chỉ phá hỏng nguyên tác "Nhật ký trong tù", lại còn "vào" Nhà xuất bản chính trị quốc gia để "đạo" nội dung cuốn sách "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp" của GS Hoàng Tranh (Trung Quốc). Chuyện động trời tới mức, chúng tôi tưởng đó là trò đùa. Nhưng hôm nay, khi đặt bút viết đến phần "không biết chữ dạy người biết chữ" chúng tôi thấy Lê Xuân Đức không hề đùa tí nào. Hay nói đúng hơn, Lê Xuân Đức đã "Lộng giả thành chân", lên tiếng dạy bảo người khác để nghiễm nhiên trở thành bậc thầy thiên hạ.
          Vậy Lê Xuân Đức dạy ai ?

1 thg 5, 2014

AI CHỊU TRÁCH NHIỆM VỀ NHỮNG TÁC HẠI SÂU XA VÀ LÂU DÀI ?

                                                    Phản hồi của bạn đọc Khải Nguyên
                                                                                                 (phucdau05@yahoo.com.vn)
                                                                                HaiPhong
  
TCTP: Hiện nay, Tuấn Công Thư Phòng chỉ đăng bài của chủ BLOG Hoàng Tuấn Công và Cụ thân sinh Hoàng Tuấn Phổ. Một số ý kiến của bạn đọc, dài hay ngắn đều được đăng ở dạng phản hồi. Riêng ý kiến của bạn đọc Khải Nguyên chúng tôi nhận được qua địa chỉ Email (không thể đăng dưới dạng phản hồi) nên xin được đăng riêng, nhưng cũng được xem như một kiểu phản hồi công khai của bạn đọc. Chúng tôi cho rằng, đây là những trăn trở rất có trách nhiệm và đáng suy nghĩ của bạn đọc Khải Nguyên. Cũng nhân đây, chúng tôi mở thêm tiểu mục "Tin nhạn" để đăng những phản hồi công phu và có nhiều ý nghĩa của bạn đọc.
Trân trọng cảm ơn Khải Nguyên và bạn đọc!
                                                                                                                                                 Tuấn Công Thư Phòng
  

30 thg 4, 2014

"Nhật ký trong tù và lời bình" hay trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức

                                                                                                                                            
Tác giả Nhật ký trong tù và lời bình

          Hoàng Tuấn Công    

                  Phần hai
            Đạo văn để bình văn

        Trong Lời tác giả Lê Xuân Đức viết: "Với niềm đam mê thơ Bác, chúng tôi đã chuyên tâm nghiên cứu và thẩm bình thơ Bác từ năm 1973 đến năm 2013 này, tròn 40 năm, và đã hoàn thành việc thẩm bình toàn bộ 133 bài thơ của Nhật ký trong tù. 

29 thg 4, 2014

BẮT BÈ BÈ

                                                               
Chim bè bè (chim giang)
                                               Ảnh:  Wikipedia

  Hoàng Tuấn Phổ

Làng tôi xưa có cánh đồng trũng lòng chảo, rộng ước 50 hecta, quanh năm ngập nước. Mùa khô, nhà nông cấy lúa chiêm ở ven đồng, lúa mọc lơ thơ, còi cọc. Thu hoạch mùa màng không đáng kể, nhưng tôm cá là “của kho vô tận”. Lệ làng cấm đánh lưới, chỉ cho phép đánh câu, đánh nơm, đánh nhủi,... 

26 thg 4, 2014

“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức ?



                                                           Hoàng Tuấn Công

HTC: Thưa quý độc giả ! 
Lẽ ra Tuấn Công Thư Phòng tiếp tục phần III kỳ 7 "Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển, GS Nguyễn Lân". Tuy nhiên, tình cờ phát hiện sách "Nhật ký trong tù và lời bình" có quá nhiều sai sót. Bởi vậy, TCTP xin tạm dừng loạt bài về Nhà biên soạn từ điển, GS Nguyễn Lân để nói đến một "Nhà" khác: Nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Xuân Đức với "Nhận ký trong tù và lời bình"
                         Tuấn Công Thư Phòng

25 thg 4, 2014

Hai lần gặp tác giả "CHÂN TRỜI CŨ"

                    Hoàng Tuấn Phổ
Sông Yên bến Ghép
                                         Ảnh: Báo Thanh Hóa
Năm 1947-1948, tôi học năm thứ nhất trung học trường tư thục Hoài Văn do ông Trần Thanh Mại làm hiệu trưởng. Trường này không có cơ sở riêng, phải mượn tạm mấy phòng của trường tiểu học Pháp-Việt cũ, địa điểm tại thôn Tam UY, bên cạnh chợ Hội, xã Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Một buổi chiều đầu năm 1948, đang giờ học sinh ra chơi, có một người đàn ông cao gầy, trạc 30 tuổi, địu con nhỏ đi ngang qua cổng trường. Bỗng thầy giáo Trần Thanh Địch từ trong lớp học chạy ra vẫy gọi rối rít. Người đàn ông địu con ấy liền rẽ vào cổng trường cùng thầy giáo chúng tôi tay bắt mặt mừng...

23 thg 4, 2014

THẠCH BẤT CẢM ĐƯƠNG ! ? Câu hỏi về một phiến đá "hèn nhát" ở Thanh Hóa

                                                                                                                                           
Đá có chữ "Thạch bất cảm đương"
HTC phát hiện tại Hậu Lộc

                                   Ảnh: Tuấn Công 
  Hoàng Tuấn Công

Tiết Kinh Trập năm con Rồng (2012), tôi “Cùng nông dân ra đồng”, phòng trừ sâu bệnh hại lúa tại huyện Hậu Lộc - Thanh Hoá. Khi đang đứng bên hè Hội trường của một thôn nhỏ xã Liên Lộc, chợt thấy cái gì đó rất hấp dẫn ở phí luỹ tre (có lẽ vì thấp thoáng sau luỹ tre là ngôi nhà lá đơn sơ chăng?). Bèn bước chân tới đó. Nhìn vào sân không thấy bóng người. Lá vàng rụng đầy trên lối ngõ rêu xanh và mặt nước ao tù. Chiếc cổng tre đơn sơ dù chỉ khép hờ cũng đủ khiến tôi không dám tự động vượt qua cái ngưỡng ấy. Vậy là đứng ngó quanh bờ rào. Nhìn trời nhìn đất… Bỗng nhiên tôi giật mình! Ngay dưới chân là một dòng chữ Hán. Bốn chữ mới nhìn tưởng quen, nhưng lại hoá ra rất lạ:
“THẠCH BẤT CẢM ĐƯƠNG”!

Đá dài độ 90cm, rộng 40cm. Có vẻ như được chọn từ một phiến đá vốn có hình thù tự nhiên như vậy. Trông hình đá gồm gồm ở giữa, mỏng dần về xung quanh như cái mai mực vậy. Chất đá không phải đá xanh mà là kiểu đá có nhiều thớ, thường thấy ở các núi đá lẫn đất. Chữ trên đá là loại chữ chân nghiêm cẩn, đúng pháp, nét bút lông mảnh. Nét viết dứt khoát như được thể hiện trực tiếp lên đá cho thợ đục. Nét đục cũng khá sâu, đường đục đanh, rõ ràng, rành mạch.

22 thg 4, 2014

CÂU KIỀU HAY NHẤT

                                                                              



                Hoàng Tuấn Phổ

Năm 1964, nhà văn Nguyễn Thế Phương chuyển công tác từ Hà Nội về Thanh Hóa. Anh phụ trách phần văn xuôi tập san Người bạn văn hóa do Ty văn hóa Thanh hóa ấn hành. Mùa hè năm 1965, lần đầu tiên tôi được gặp anh trong ngôi nhà cơ quan sơ tán ở huyện Đông Sơn. Anh cởi trần, đang nằm dài trên giường, tay phe phẩy quạt mo, vẻ mệt nhọc. Tôi thầm đoán anh đi công tác mới về. Vì có lần tôi nghe một người kể: Anh Phương không khỏe lắm, nhưng mỗi khi đi công tác, hễ ngồi lên xe đạp là cắm đầu cúi cổ phóng liền một mạch, cho đến lúc đến nơi phải nằm lăn ra giường thở dốc và nghỉ ngơi hàng giờ mới lại sức. Tôi định lui ra, song không kịp. Anh Phương thấy khách liền vùng dậy chào hỏi niềm nở. Khi biết tôi là ai, anh bắt chuyện ngay:
-Tôi có đọc mấy bài của anh viết về Truyện Kiều trên tập san Nghiên cứu văn học, tôi muốn hỏi anh, trong Truyện Kiều có câu nào là hay nhất ?