Hoàng Tuấn Công
Phần IV
Đạo đồ giả và sáng tạo nhầm
Chuyện “đạo
văn” của Lê Xuân Đức đã quá rõ. Nhưng, cái hay, cái đúng Lê Xuân Đức đạo đã
đành. Đằng này, những sai sót nhầm lẫn, thiếu chính xác của người ta, ông Lê Xuân
Đức cũng cứ “xài” liền liền.
1.Bài Bạn
tù họ Mạc. Hai câu:“Xa đại pháo” tài chân vĩ đại, Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.
Ông Lê Xuân Đức giảng giải: “Xa đại pháo là một phương ngữ ở Quảng Đông (chứ không
phải như chú thích của Viện văn học
trong bản dịch năm 1983) có nghĩa là một tấc lên trời, huênh hoang khoác lác.
Phương ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông “Đại suy đại lôi” nghĩa là bốc phét quá chừng, quá mức”.
Xin trao đổi với Nhà phê bình Lê Xuân Đức mấy điểm sau
đây:
a/Cái ý “Xa đại pháo là phương ngữ Quảng Đông”
chẳng qua Lê Xuân Đức “chôm” của GS Hoàng Tranh trong “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú
thích-thư pháp, (chú thích tr.128). GS Hoàng Tranh viết: "phương ngôn", ông đổi thành "phương ngữ". Mặt khác, Lê
Xuân Đức nói "phương ngữ này cùng
một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông" là chẳng hiểu hai khái niệm
phương ngữ và thành ngữ nó giống nhau, khác nhau ra sao. Hơn nữa, Viện văn học chú thích sai như thế nào,
sao ông không nói rõ mà lại lập lờ như vậy ? Bởi, cái ý “Xa đại pháo” nghĩa là “huênh
hoang, khoác lác” đã được Nam Trân hiểu đúng và dịch là “một tấc lên mây” rồi, Lê Xuân Đức còn “phát hiện” làm gì nữa ? (Một tấc lên mây” ghê gớm thật, Ngồi tù mà vẫn
ước nhân sâm-Nam Trân dịch).
b.Câu “Đại suy
đại lôi” không biết Lê Xuân Đức chép ở đâu, nhưng đã chép sai. Vì viết đúng
là “Đại xuy đại lôi” (xuy chữ X) chứ không phải “Đại suy đại lôi” (suy chữ S). Chữ “xuy” này không có nghĩa là “suy” như Lê Xuân Đức “suy diễn”
mà có nghĩa là thổi (xuy trong xuy địch: Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy-Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay-Bài Hoàng hôn-"Ngục trung nhật ký"-Nam Trân dịch).
Câu“Đại xuy đại lôi” (xuy = thổi; lôi =đánh) có nghĩa là cùng lúc tấu các loại nhạc cụ lên. Câu này vốn là một đoạn trong lời thoại vở kịch Tứ đại vương ca vũ Lệ Xuân đường” (四大王歌舞麗春堂), còn gọi là vở Lệ Xuân đường của Nhà viết kịch Vương Thực Phủ đời Nguyên:“Ban cho anh hoàng kim ngàn lượng, rượu thơm trăm bình, tại Lệ Xuân đường cùng tấu tất cả nhạc khí lên (đại xuy đại lôi-大吹大擂) tổ chức tiệc vui thật linh đình”. (赐你黄金千两,香酒百瓶, 就在丽春堂大吹大擂, 做一个喜庆的筵席).
Câu“Đại xuy đại lôi” (xuy = thổi; lôi =đánh) có nghĩa là cùng lúc tấu các loại nhạc cụ lên. Câu này vốn là một đoạn trong lời thoại vở kịch Tứ đại vương ca vũ Lệ Xuân đường” (四大王歌舞麗春堂), còn gọi là vở Lệ Xuân đường của Nhà viết kịch Vương Thực Phủ đời Nguyên:“Ban cho anh hoàng kim ngàn lượng, rượu thơm trăm bình, tại Lệ Xuân đường cùng tấu tất cả nhạc khí lên (đại xuy đại lôi-大吹大擂) tổ chức tiệc vui thật linh đình”. (赐你黄金千两,香酒百瓶, 就在丽春堂大吹大擂, 做一个喜庆的筵席).
Trong lời thoại trên: ngàn lạng
vàng, trăm bình rượi thơm, tấu tất cả các nhạc khí lên, đều mang vẻ rất
khoa trương. Và “đại xuy, đại lôi”
được "lẩy" ra để dùng như một thành ngữ chỉ
sự khoe khoang quá mức. Như vậy,
câu thành ngữ “Đại xuy đại lôi”, chỉ có nghĩa là tấu tất cả các nhạc khí lên, vốn
là một “tích” trong vở kịch Lệ Xuân đường, đâu phải là “một
thành ngữ ở Quảng Đông” như Lê Xuân Đức nói.
Nói
thêm: Lê Xuân Đức từng có bài viết “Đi nhiều để hiểu sâu hơn”
trên Báo Công anh nhân dân và Báo
Thanh Hóa. Ông viết: “Đặc biệt, cùng với việc tìm hiểu một số
phương ngữ, thành ngữ Quảng Tây (Trung Quốc), một số điển cố lịch sử và thơ ca
cổ Trung Quốc mà Bác sử dụng và tập cổ trong "Nhật ký trong tù", tôi đã có hai chuyến điền dã ở Quảng
Tây, là nơi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trước đây. Chuyến thứ nhất, lần theo con đường tù đày
của Bác qua 13 huyện tỉnh Quảng Tây: Tĩnh Tây, Thiên Bảo (nay là Đức Bảo), Điền
Đông, Quả Đức, Long An, Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ
Minh, Tân Dương, Lai Tân (nay là khu Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân),
Liễu Châu, Quế Lâm và một chuyến trở lại một số địa điểm cần thiết để xác định
và hiểu rõ hơn những điều cần tìm hiểu”.
Theo đó, Lê Xuân Đức từng sang Quảng
Tây-Trung Quốc “điền dã”, và đã đi tới hai lần. Lịch trình đi của Lê Xuân Đức giống hệt cách đặt câu trong "chú thích" của GS Hoàng Tranh. Và rốt cuộc ông đã “cầm
nhầm” sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú
thích-thư pháp”của GS Hoàng Tranh rồi cứ ngỡ đây là sổ tay “điền dã” của
mình! Riêng câu “Đại suy đại lôi” hiện chúng tôi chưa biết ông Lê Xuân Đức đã “điền dã” được ở trong sách của ai, nhưng vì không hiểu cặn kẽ cụ thể nó là gì nên đã chép sai và gán cho nó cái xuất xứ “thành
ngữ ở Quảng Đông” vậy đó.
2.Bài Bị hạn chế:
Một hữu tự do chân thống khổ,
Xuất
cung dã bị nhân chế tài;
Khai lung chi thời đỗ bất thống,
Đỗ thống chi thời lung bất khai.
Nam Trân dịch:
Đau khổ
chi bằng mất tự do,
Đến buồn
đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù
khi mở, không đau bụng,
Đau bụng
thì không mở cửa tù.
Bài này GS Hoàng
Tranh chú thích: “Hai chữ xuất cung (出恭), tiếng Quảng Đông có nghĩa là đi ngoài”. Thế là Lê Xuân Đức
bám ngay vào đây để “bình”: “Những từ
Hán-Việt nôm na mách qué, theo quan
niệm truyền thống, đặc biệt thơ cổ là tối kỵ, uế tạp, nhưng với Bác, giản dị đã
trở thành bản lĩnh...” Thế nhưng, Lê Xuân Đức chỉ quen nói theo, "chôm
đồ" của GS Hoàng Tranh mà không tự tìm hiểu xem nó là đồ thật hay đồ giả.
Tại sao “xuất cung” 出恭 (chữ cung trong
cung kính) lại được đem dùng để nói một
việc chẳng ăn nhập gì là "đi ị" ? Liệu có đúng đây là “tiếng Quảng Đông” theo kiểu "nôm na mách qué" không ? Lê Xuân Đức có điều kiện sang Trung
Quốc “điền dã” sao không tra cứu từ điển Tàu cẩn thận rồi hẵng viết, thay vì phỏng đoán, "chôm" ý tưởng sai của người khác ?
Từ “xuất
cung” vốn sinh ra ở chốn trường thi (từ đời Nguyên bên Tàu). Vào trường
thi, sĩ tử làm bài kéo dài tới cả ngày trời nên phải đem theo thức ăn, nước uống
tự phục vụ tại chỗ. Riêng việc đại tiện, tiểu tiện, để tránh thí sinh tự ý đi lại,
rời vị trí ngồi, gian lận tài liệu, trường thi quy định phải “xuất cung, nhập kính”. Tức ra, vào đều phải có phép tắc nghiêm chỉnh.
Muốn đi đái, đi ỉa, trước tiên sĩ tử phải xin phép và lĩnh tấm thẻ có chữ “xuất cung” mới được đi nhà xí. Do vậy,
người ta gọi đi nhà xí là “xuất cung”.
Lại gọi đại tiện là “xuất đại cung”,
tiểu tiện là “xuất tiểu cung”. (Nguyên đại khởi: Khoa cử khảo trường trung thiết
hữu: xuất cung, nhập kính bài, dĩ phòng sĩ tử đàn ly tọa vị, sĩ tử nhập xí tu
tiên lĩnh thử bài, nhân xưng nhập xí vi xuất cung. Tịnh vị đại tiện vi xuất đại
cung, tiểu tiện vị xuất tiểu cung-Nguyên văn chữ Hán trong từ điển Tàu, HTC phiên âm,dịch nghĩa).
Như thế, “xuất
cung” không phải là “tiếng Quảng
Đông” ? Và dĩ nhiên Bác Hồ cũng không hề “nôm na, mách qué” như Lê Xuân Đức nghĩ. Bác nói chữ đó !
Nói thêm: Trong nguyên tác chữ Hán “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân chương 29, đoạn nói Trư Bát Giới khoe
khoang, mắng nhiếc Huỳnh Bào rồi cùng Sa Tăng nhảy vào giao chiến. Đánh tới 90
hiệp, Bát Giới đã mệt lử, Sa Tăng cũng hết hơi mà không thắng nổi. Có nguy cơ bại
trận, Bát Giới mới nói lừa Sa Tăng: “Hiền
đệ cố sức cầm cự tiếp, đợi ta "đi
ngoài" cái đã, xong sẽ quay lại ngay”. (Sa Tăng ! Nhĩ thả
thượng tiền lai, dữ tha đấu trước, Lão Trư xuất cung lai ( 沙僧,你且上前来与他斗着,老猪 出恭来)Sa Tăng tin lời Bát Giới, đem hết sức ra đánh. Chẳng
ngờ Bát Giới chạy xa, tìm chỗ mát nằm ngáy khò khò. Còn Sa Tăng đợi Bát Giới hết
hơi, một mình đánh không lại, bị Huỳnh Bào bắt sống trói gô lại.
Việt Nam cũng có từ “đi ngoài” để chỉ “đại tiện”.
Rất có thể từ này cũng xuất phát từ cách nói “xin ra ngoài” của sĩ tử trường thi xưa. Chúng tôi còn nhớ hồi nhỏ
đi học, ban đầu đứa nào đứa nấy cứ bô bô: “Thưa
cô, cho em xin ra ngoài đi ỉa”. Thầy cô mới dạy cho phép lịch sự: “Từ nay,
em nào “muốn vậy”, phải nói rằng “Thưa
cô, cho em ra ngoài có việc” nhớ
không ? Xin phép “ra ngoài có việc”
bao giờ cũng dễ dàng và được “phóng thích” nhanh nhất. Thế là đôi khi chẳng hề
có nhu cầu "xuất cung", hay
“có việc” gì nhưng có đứa ngồi chán trong lớp, cũng vờ đứng dậy nhăn nhó:“Thưa cô cho em ra ngoài có việc”.
Đáng chú ý, việc “thó” phải “đồ giả” của ông Lê Xuân Đức không chỉ
dừng lại ở một vài trường hợp.
3.Bài “Ghẻ lở”. Hai
câu:
Mãn thân hồng, lục như xuyên cẩm,
Thành nhật lao tao tự cổ cầm;
(Khắp người xanh đỏ
như hoa gấm,
Suốt ngày gãi sột
soạt tựa gảy đàn)
-GS Hoàng Tranh (sách đã dẫn
tr.193) chú thích:
“Hai chữ “thành nhật”
(成日) là tiếng địa phương của vùng Quảng Đông. Những
năm 20 và 30 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã từng hoạt động cách mạng ở vùng Quảng
Châu và Hồng Kông tiếp xúc với tiếng Quảng Đông, nên trong các câu thơ thường
xuất hiện một số từ ngữ Quảng Đông. Ví dụ: xuyên cẩm (穿錦) - mặc áo gấm, “cổ cầm” (鼓琴)-gảy đàn, để so sánh với cái ghẻ lở trên thân thể
người bị giam trong tù”.
-Tài liệu “điền
dã” và “lời bình” của Lê Xuân Đức:
“Hai chữ “thành nhật”
là tiếng địa phương vùng Quảng Đông, Bác đã từng hoạt động cách mạng ở vùng Quảng
Đông những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, tiếp xúc nhiều và dùng tiếng Quảng Đông,
nên trong các câu thơ thường xuất hiện một số từ ngữ Quảng Đông như trong bài
này: Thành nhật: suốt ngày, xuyên cẩm: mặc áo gấm, cổ cầm: gảy đàn, là cách nói
hình ảnh chỉ cái ghẻ và gãi ghẻ trên thân thể người bị giam trong tù”.
Như vậy, Lê Xuân Đức tiếp tục “đạo” chú thích của
GS Hoàng Tranh làm “tài liệu điền dã” của mình. Nhưng GS Hoàng Tranh là người
Lưỡng Quảng (cụ thể Quảng Châu-Quảng Đông-Trung Quốc). Có lẽ vì yêu tiếng mẹ đẻ của
mình nên nhiều từ, ngữ GS Hoàng Tranh cho rằng nó là phương ngữ độc đáo của
riêng vùng Quảng Đông. Thế nhưng, Lê Xuân Đức là người Việt Nam, lại đang
nghiên cứu về một tác phẩm, tuy viết bằng chữ Hán nhưng tác giả của nó cũng là một
người Việt Nam: Nhà thơ - Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sao lại nói theo, lại
“đạo” nguyên xi cái ý chủ quan của một người Quảng Đông-Trung Quốc ?
-Từ “thành
nhật” từ điển Tàu có mở ngoặc là phương
(方) tức phương
ngữ. Tuy nhiên, các từ “xuyên cẩm”,
“cổ cầm” không được xếp vào phương ngữ,
càng không phải là phương ngữ của Quảng Đông.
1.Từ
“xuyên cẩm”: Tiếng phổ thông Trung Quốc, “xuyên” được
dùng để tạo nên các cấu tạo từ như: mặc
quần áo, đi tất, đi găng tay, đi dép,v.v...
-Từ
điển Hán Việt (Phan Văn Các chủ biên): “Xuyên: Mặc/đi
giày, tất, găng tay. xuyên hài 穿鞋 (đi dép); xuyên y phục 穿衣服
(mặc quần áo)
-Từ
điển Hán Việt-Đào Duy Anh: Xuyên hiếu 穿孝 (mặc áo tang, để tang). Xuyên y 穿衣-mặc áo vào mình.
-Tự
điển Hán-Việt (Trần Văn Chánh): Xuyên: Mặc, mang, đi:
穿衣服 Mặc quần áo; 穿鞋 Đi giày.
-Từ
điển Việt Hán (Đinh Gia Khánh hiệu đính): “Mặc: 穿(衣) mặc quần áo穿衣服 (xuyên y phục)
-Tục ngữ Trung Quốc: Xuyên y, đới mạo, các nhân sở hiếu 穿衣,戴帽,各人所孝 (Mặc
áo đội mũ, mỗi người một sở thích); Xuyên hắc y, bão hắc trụ 穿黑衣,抱黑柱
(Mặc áo đen, ôm cột đen). Ngoài từ
“xuyên” để chỉ mặc quần áo, đi dày, đi tất...không thấy từ điển Tàu
và từ điển Hán-Việt; Việt-Hán của ta ghi nhận từ nào khác đồng
nghĩa.
Như vậy, cái áo gấm thêu dệt nhiều
màu, Hồ Chí Minh dùng “xuyên cẩm” 穿
錦 (xuyên=mặc; cẩm= áo gấm),
với nghĩa là mặc áo gấm, để chỉ màu
da bị ghẻ lở, lý do gì để xếp vào “phương
ngữ Quảng Đông” ?
2.Từ
“cổ cầm”: Đây cũng là từ phổ thông, bởi đơn giản “cổ” nghĩa
là đánh, “cầm” là đàn cầm.
-Từ
điển Hán Việt (Đào Duy Anh) 鼓琴 “Cổ cầm: đánh đàn cầm”.
-Hán
Việt tự điển (Thiều Chửu): Cổ 鼓 ①
Cái trống.② Ðánh trống. ③ Gảy, khua. ④
Quạt lên, cổ động. ⑤
Trống canh.
-Từ
điển Hán Việt (Trần Văn Chánh): Cổ 鼓 ①
Trống: 銅鼓 Trống đồng; 更鼓 Trống canh; ② (văn) Đánh trống; ③
Đánh, gảy, khua, làm cho kêu, vỗ: cổ cầm
鼓琴Đánh đàn.
“Cổ” là đánh, gảy, khua nhạc cụ; “cầm” là đàn cầm, loại đàn có 7 dây ngày xưa, khi đánh đàn phải dùng mười ngón tay để gẩy. Bác Hồ mượn
hình ảnh đó để chỉ đùa động tác gãi ghẻ, lý do gì Lê Xuân Đức xếp vào “phương ngữ Quảng Đông” ?
Vậy, bây giờ một trong hai tội: đạo văn và viết
sai, Lê Xuân Đức chọn tội nào ? Nếu Lê Xuân Đức không muốn nhận mình viết sai,
chỉ còn một cách là thú nhận tội đạo văn, đạo ý tưởng của GS Hoàng Tranh mà
thôi !
Văn chương Lê Xuân Đức sao chép, hoặc kết quả của
những chuyến đi “điền dã” là như vậy. Còn những "nghiên cứu sáng tạo, thẩm bình” của riêng ông thì
sao ?
1.Bài Buồn bực. Hai câu:
Hoàn cầu chiến hỏa thước thanh thiên,
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.
-Chữ “hoàn” Lê Xuân Đức giải nghĩa: “Hoàn cầu (hoàn đầy đủ; cầu, quả tròn, trái
đất)”. Sai nghiêm trọng ! Bởi chữ “hoàn” 環 (hoàn có bộ ngọc)
trong “Hoàn cầu” nghĩa khắp cả, Hoàn cầu là khắp trái đất.
Còn chữ “hoàn” với nghĩa “đầy đủ” như Lê Xuân Đức giảng giải viết là 完 (chữ hoàn này có bộ miên - không có trong nguyên tác bài Buồn bực của Hồ Chí Minh) có nghĩa: vẹn, đầy đủ, xong cả, tốt..., được dùng
trong các kết hợp từ như: hoàn hảo, hoàn
công,v.v...
-Từ “Tráng
sĩ” Lê Xuân Đức giảng:“Tráng sĩ
(tráng: mạnh mẽ; sĩ: người có học) là người có sức mạnh, có ý chí, có tri thức”.
Lê Xuân Đức lại nói sai rồi! Vậy dũng
sĩ, liệt sĩ thì sao ? Chữ “sĩ” ở
đây chẳng nhẽ cũng là “người có học, có
tri thức” như Lê Xuân Đức giảng giải ?
Chữ 士 trong giáp cốt văn và kim văn vốn có hình vẽ cái búa, tượng trưng cho hình quan, và ban đầu có nghĩa là hình quan coi ngục, sau mới thêm nhiều nghĩa khác. Tuy cũng viết là “sĩ” 士, nhưng “tráng sĩ” không được hiểu với nghĩa: Người trí thức trong xã hội cũ, kẻ sĩ, học trò: 學士 Học sĩ; 士農工商 Sĩ nông công thương, mà là cách gọi tôn xưng người khác.
Chữ 士 trong giáp cốt văn và kim văn vốn có hình vẽ cái búa, tượng trưng cho hình quan, và ban đầu có nghĩa là hình quan coi ngục, sau mới thêm nhiều nghĩa khác. Tuy cũng viết là “sĩ” 士, nhưng “tráng sĩ” không được hiểu với nghĩa: Người trí thức trong xã hội cũ, kẻ sĩ, học trò: 學士 Học sĩ; 士農工商 Sĩ nông công thương, mà là cách gọi tôn xưng người khác.
-Hán Việt từ điển (Phan Văn Các): “Sĩ士 (cách gọi ca ngợi
người khác) Liệt sĩ, dũng sĩ, nữ sĩ”
-Từ điển Hán Việt (Trần Văn Chánh):
“Sĩ士Người, kẻ (cách diễn
đạt tỏ ý lịch sự và tôn trọng đối với hạng người nào đó): 志士 Chí sĩ; 壯士 Tráng sĩ; 烈士 Liệt sĩ...”.
Như vậy cái sai của Lê Xuân Đức xuất phát từ chỗ
không phân biệt được chữ Hán đồng âm, đồng tự nhưng đa nghĩa.
2. Bài Đáp xe lửa
đi Lai Tân:
Câu “Kim
thiên đắc tháp hỏa xa hành” (Hôm nay được đáp xe lửa). Lê Xuân Đức bình và
giải nghĩa: “Chữ tháp của Hán tự có nghĩa
là gắn vào, cắm vào, trong văn cảnh bài thơ này có nghĩa là đáp, từ mà những
người quyền quý, giàu có thường dùng để thể hiện sự sang trọng, chứ dân chúng
chỉ nói là đi (xe lửa).
-Chúng tối rất ngạc nhiên. Không hiểu căn cứ vào đâu, Lê Xuân Đức nói rằng: chữ “tháp”
có nghĩa là “gắn vào, cắm vào” ? Hóa
ra, Lê Xuân Đức đã nhầm chữ "tháp" 搭(đáp) với chữ “sáp” viết là 插 có một âm đọc là “tháp”. Thưa Nhà nghiên cứu Lê Xuân Đức, chữ "tháp" (sáp) như ông nói viết khác hẳn chữ “tháp” 搭 (đáp) trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh.
Chữ “tháp” 插 (sáp) mà Lê Xuân Đức nhầm lẫn được Trần Văn Chánh giải nghĩa: “Tháp 插 ① Cắm, cấy, giâm, trồng, cho vào, thọc vào, cài, gài, xen, gắn, xen thêm, gắn thêm, giắt: 把花插在瓶子裡 Cắm hoa vào lọ; 把手插在口袋裡 Cho tay vào túi, thọc tay vào túi”.
Chữ “tháp” 插 (sáp) mà Lê Xuân Đức nhầm lẫn được Trần Văn Chánh giải nghĩa: “Tháp 插 ① Cắm, cấy, giâm, trồng, cho vào, thọc vào, cài, gài, xen, gắn, xen thêm, gắn thêm, giắt: 把花插在瓶子裡 Cắm hoa vào lọ; 把手插在口袋裡 Cho tay vào túi, thọc tay vào túi”.
-Chữ “tháp”
搭có một âm đọc là “đáp”, có nghĩa là đi tàu, đi
xe chứ không phải “trong văn cảnh bài
thơ này có nghĩa là đáp” như Lê Xuân Đức nói.
-Chữ “đáp” 搭 đồng nghĩa với chữ
“tọa” 坐 ,chứ chẳng phải “từ mà những người quyền quý, giàu có thường dùng
để thể hiện sự sang trọng, chứ dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa)” như Lê Xuân Đức giảng giải:
+Hán
Việt từ điển (Thiểu Chửu) “Đáp: Phụ vào, đáp đi, như đáp
xa 搭車
đạp xe đi, đáp thuyền搭船
đáp thuyền đi, v.v.
+Từ
điển Hán Việt (Trần Văn Chánh): Đáp 搭, đi, ngồi: 搭飛機 Đáp máy bay; 搭長途汽車 Đi xe ca, đi xe đò; 貨船不搭客人 Tàu (thuyền) chở hàng không chở hành khách”.
-Lê Xuân Đức nói: Ở Trung Quốc“dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa)”. Ông quên mất rằng mình đang bình thơ chữ Hán, tìm
hiểu nghĩa chữ Hán chứ không phải tiếng Việt. Thưa ông, người Trung Quốc (Hán ngữ) không nói đi tàu, đi xe như người Việt Nam, mà
ngoài từ “đáp”, họ thường dùng từ “tọa” 坐 nghĩa là ngồi: tọa hỏa xa-đi xe lửa; tọa
khí xa-đi ô-tô, tọa phi cơ-đi máy bay và không phân
biệt ‘đẳng cấp” như ông nghĩ. Từ điển
Hán Việt (Trần Văn Chánh) đồng nghĩa từ “tọa” với từ “đáp”: “Tọa ② Đi (xe), đáp: 坐汽車 Tọa khí xa -Đi xe hơi; 坐飛機去河内 Tọa phi cơ khứ Hà Nội-Đáp máy bay đi Hà
Nội”
Ngay từ đi
tàu, đi ô tô của người Việt Nam
cũng là cách gọi tắt của đi (bằng) tàu hỏa, đi (bằng) ô tô. Trước đây, từ “đáp”
ô tô, “đáp” tàu hỏa cũng từng được người Việt Nam sử dụng với nghĩa tương đương
với từ “đi” (tàu) mà không phân biệt người sang, kẻ hèn. Việt Nam tự điển (Hội khai trí tiến đức): "Đáp: Nói tàu thuyền đáp lại để đón thêm khách: Tàu đáp khách ở dọc đường; Khách xuống thuyền để đáp tàu".
Trong bài “Bình và nghĩ về thơ Hồ Chí Minh”
của GS Phong Lê (tài liệu phô tô gồm toàn các GS của ta và của Tàu ngợi khen Lê Xuân
Đức, do chính Lê Xuân Đức phô tô gửi tặng nhiều người trong dịp về nghỉ 30/4-1/5
tại Thanh Hóa) có viết: “Ông (tức Lê
Xuân Đức-HTC chú thích) thuộc trong số
không nhiều người có thâm niên theo đuổi khá lâu và khá sâu trong định hướng
được lựa chọn, có những đóng góp đáng kể”.
Quả đúng là riêng “thâm niên” 40 năm nghiên cứu “thẩm bình” thơ của Lê Xuân Đức đã
nhiều quá nửa số năm hưởng dương của Nam Trân tiên sinh rồi. Mà đã “có thâm niên” nghiễm nhiên được lên “lão làng”. Cộng với tài đạo văn, xào
xáo, GS Phong Lê đã lý giải hộ chúng tôi, tại sao Lê Xuân Đức trở thành Chuyên
gia số 1 về thơ Bác. Thực tế những sai
lầm trong sách Nhật ký trong tù và lời bình (cuốn sách mới nhất của Lê Xuân
Đức xuất bản đúng dịp 40 năm nghiên cứu thơ Bác) đã nói lên đầy đủ ở hai chữ “theo đuổi”: Lê Xuân Đức chưa bao giờ
tiếp cận được thơ Bác ! Ngược lại, đến chặng cuối Lê Xuân Đức càng thêm đuối sức,
phải ăn cắp sức lực, trí tuệ của người khác như bạn đọc đã thấy.
Rốt cuộc, sau một thời gian thoát khỏi "ao văn bình giảng" để mong vẫy vùng, ngụp
lặn, (dù đã gian dối sử dụng "phao") nhưng Lê Xuân Đức vẫn bị
chìm nghỉm trong “bể văn chương” mênh mông chữ nghĩa !
Cuối cùng, chúng tôi tự hỏi: Không biết có nên để mắt đến 9 tác phẩm viết về thơ Bác của Lê Xuân Đức hay không ? Đặc biệt là cuốn sách được trao giải xuất sắc của Hội nhà văn Việt Nam "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" trong cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức.
Có lẽ câu chuyện về Lê Xuân Đức sẽ chưa dừng lại ở đây !
Cuối cùng, chúng tôi tự hỏi: Không biết có nên để mắt đến 9 tác phẩm viết về thơ Bác của Lê Xuân Đức hay không ? Đặc biệt là cuốn sách được trao giải xuất sắc của Hội nhà văn Việt Nam "Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh" trong cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập, làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" của Lê Xuân Đức.
Có lẽ câu chuyện về Lê Xuân Đức sẽ chưa dừng lại ở đây !
HTC
Tốc ký tại Quán trọ Quang Minh
Sầm Sơn, dịp nghỉ 30/4-1/5/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét