Phần II
“Giải nghĩa” hay đoán nghĩa ?
Hoàng Tuấn Công
Trong
phần I (Xem tại đây) chúng tôi đã chỉ ra một số sai lầm của Nguyễn Cừ trong “Giải
nghĩa tục ngữ Việt nam” như: nhận lầm thành ngữ ra tục ngữ, không phân
biệt được ngữ danh từ, cụm từ đơn thuần, quán ngữ với thành ngữ, tục ngữ,v.v...Một
khi chưa hiểu tục ngữ Việt Nam là gì, việc Nguyễn Cừ thất bại trong “giải nghĩa tục ngữ Việt Nam” giống như
một bước tất yếu.
Dưới đây là trao đổi của chúng tôi. Đối với những câu, nếu
thấy sách khác có cách giải thích hợp lý, chúng tôi sẽ trích dẫn, xem như thay
lời trao đổi của mình.
Nói
đến tục ngữ Việt Nam là nói đến kho tàng kinh nghiệm về sản xuất và các mối
quan hệ ứng xử trong gia đình, xã hội. Tuy nhiên, Nguyễn Cừ thiếu kiến thức hiểu biết cơ bản về cả hai lĩnh vực này:
Về
kinh nghiệm lao động, sản xuất:
"Nắng
đan đó, mưa gió đan gàu: Kinh nghiệm của nông dân, nắng đan đó đi đặt bắt cá, còn mưa gió đan
gàu tát nước".
Giải
thích vậy không rõ nghĩa, thậm chí sai, bởi trời nắng đơm đó ở đâu được? Còn đã có mưa việc gì phải tát nước nữa?
Tục ngữ có câu: “Nắng lắm mưa nhiều”. Bởi vậy, lúc nắng nên chuẩn bị đan đó để khi đổ mưa lớn có thể đem đơm cá ngay. Còn lúc mưa gió, phải nghĩ ngay đến thời kỳ hạn hán diễn ra sau đó, nên cần đan gàu chuẩn bị chống hạn. Nghĩa bóng: đây là kinh nghiệm dự đoán thời tiết để bố trí lao động sản xuất, lợi dụng yếu tố thuận lợi, khắc phục điều kiện thiên tai bất lợi của nhân dân lao động.
Tục ngữ có câu: “Nắng lắm mưa nhiều”. Bởi vậy, lúc nắng nên chuẩn bị đan đó để khi đổ mưa lớn có thể đem đơm cá ngay. Còn lúc mưa gió, phải nghĩ ngay đến thời kỳ hạn hán diễn ra sau đó, nên cần đan gàu chuẩn bị chống hạn. Nghĩa bóng: đây là kinh nghiệm dự đoán thời tiết để bố trí lao động sản xuất, lợi dụng yếu tố thuận lợi, khắc phục điều kiện thiên tai bất lợi của nhân dân lao động.
"Nhất
ruộng, nhì mạ, thứ ba chuyên cần: Kinh nghiệm nhà nông làm ruộng, trồng lúa".
Ai
cũng biết đó là “kinh nghiệm nhà nông làm
ruộng, trồng lúa”, (không ai nhầm với kinh nghiệm buôn bán hay chăn nuôi
lợn gà). Nhưng kinh nghiệm ấy như thế nào, cần giải thích rõ.
Ở
đây, nông dân muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của chân đất: trong canh tác (đặc biệt lúa
nước), quan trọng nhất là chân ruộng: chủ động tưới tiêu, chất đất màu mỡ, không
chua mặn. Có được chân ruộng tốt này, không cần đầu tư nhiều, thậm chí phân tro
có kém tí chút, lúa vẫn cho năng suất khá. Ngược lại, vớ phải chân đất xấu,
“chiêm khê, mùa thối”, chua mặn, dẫu có bỏ công sức, đầu tư nhiều phân bón,
cũng rất khó đẩy năng suất lên cao. (Kinh nghiệm này đến bây giờ vẫn đúng).
Ngoài ra, tục ngữ còn nhấn mạnh yếu tố giống (mạ và thâm canh mạ: “Tốt giống, tốt má, tốt mạ, tốt lúa”) và cuối cùng là phải “cần”: thường xuyên chăm sóc, làm
cỏ, phòng trừ dịch hại...
"Thưa
mạ tốt lúa: Cấy
thưa thì tốt lúa".
Giải thích như vậy là Nguyễn Cừ không
phân biệt được mạ với lúa khác nhau thế nào, càng không hiểu gì về kinh nghiệm
sản xuất của nhân dân. Vì mạ là mạ, lúa là lúa. Đang là cây mạ, (nằm trong bó
mạ, hoặc tảng mạ xúc), ngắt ra vài ba dảnh, cấy xuống, đã được gọi ngay là khóm lúa, không ai gọi là mạ nữa. Bởi
vậy, “thưa mạ” không thể hiểu là “cấy thưa” được.
“Thưa
mạ” ở đây là mạ được gieo thưa, có đủ ánh sáng và chất dinh dưỡng, đanh
dảnh, cứng cây; khi đem cấy, lúa sẽ nhanh bén rễ hồi xanh, đủ điều kiện chống
chọi với thời tiết bất thuận (giá rét vụ xuân và nắng nóng ở vụ mùa) sinh
trưởng nhanh, kháng sâu bệnh (Đúng như câu tục ngữ chúng tôi đã dẫn ở trên: Tốt giống, tốt má; tốt mạ, tốt lúa).
Ngược lại, nếu mạ gieo quá dày, thiếu ánh sáng, dinh dưỡng, dảnh mạ bị lướt, ốm
yếu; khi đem cấy dễ bị chết rét, chết do nắng nóng hoặc còi cọc, sâu bệnh dễ
xâm nhập gây hại. Thế nên tục ngữ Việt còn có câu nhấn mạnh tầm quan trọng của thâm canh ngay ở giai đoạn mạ như: "Nhất ruộng, nhì mạ, thứ ba chuyên cần".
Tục ngữ Mường: "Muốn ăn cơm chăm mạ, muốn ăn cá chăm ao" (Moành ăn cơm
chăm má, moành ăn cà chăm đấm côống ao)"; "Mạ vãi thưa, ruộng cấy dày" (Má quải sưa, trưa cần ráy)".
Tục ngữ Tày: "Khôn thì chăm sóc cây mạ, dại thì chăm sóc ruộng" (Quai
chướng chả, vả chướng nà)"; "Ruộng
tốt là do mạ tốt, con bụ bẫm chóng lớn là do sữa mẹ (Nà đây nhoòng chả lủc
mả nhoòng nồm)"; Tục ngữ Hán:
"Mẹ khỏe, con khỏe;
mạ tốt, lúa tốt-Nương hảo, nám hảo, ương hảo, đạo hảo-娘好, 囡好, 秧好, 稻好".
"Chiêm khô mùa thối:
Ý nói, vụ chiêm mà hạn hán, vụ mùa sẽ lụt
lội thì năm đó sẽ mất mùa".
Vụ
chiêm đã hạn hán, vụ mùa lại lụt lội thì đúng mất mùa “là cái chắc”! Tuy nhiên, câu
tục ngữ không nói như vậy. Tiến sĩ Ngữ học Nguyễn Đức Dương trong “Từ điển tục ngữ Việt” cũng hiểu sai
câu tục ngữ này. Chúng tôi xin dẫn lại nội dung trao đổi với Nguyễn Đức Dương
trong bài “Ai làm hỏng di sản tục ngữ ?” (Từng đăng trên “Quê
Choa” và Tạp chí Văn hóa dân gian-Viện nghiên cứu
văn hóa-Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, số 4-2013) để bạn đọc tham khảo,
cũng là để giải thích và trao đổi với Nguyễn Cừ:
“Chiêm khê; mùa thối
(Tình trạng hay gặp ở vùng chiêm
trũng là đất gieo trồng) trong vụ chiêm hay bị khê; trong vụ mùa hay bị thối.
Từ
“khê” được Nguyễn Đức Dương giải
thích “Khê (Đất phơi ải) chẳng tài nào
khô nỏ và tơi xốp nổi (do ít được dãi dầu cùng nắng gió)”. Và chữ “Thối (Đất làm dầm) chẳng tài nào nhuyễn ra
nổi (do nước mất hết khả năng ngấm sâu vào đất).
Loại
đất cày ải không đủ thời gian hoặc điều kiện thời tiết làm cho khô nỏ, người ta
gọi là ải thâm, không ai gọi đất
“khê”(Ải thâm không bằng dầm ngấu) Nếu
đất “không tài nào nhuyễn ra nổi” nguyên
do “nước mất hết khả năng ngấm sâu vào
đất” thì sao gọi là “thối” được ?
Thực
ra câu tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” nói về khó khăn của vùng đất không chủ
động được tưới tiêu.Vụ chiêm (gắn với mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên
đất đai, cây trồng thường bị “khê” -
khô cháy (“khê” - trong từ cơm khê - cơm bị cháy khét). Vụ mùa (gắn
với mùa mưa lũ) hệ thống tiêu nước kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm đến
thối trong nước lũ. Bởi thế đối tượng mà tục ngữ nói đến ở đây không chỉ là đất
gieo trồng (như NĐD giải thích) mà bao gồm cả cây trồng trên đất ấy (cụ thể là
cây lúa nước).
Câu
tục ngữ “Chiêm khê, mùa thối” chỉ là cách nói hình tượng hơn câu “Chiêm khô; mùa úng” mà nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương dẫn ra
ngay sau đó. Tuy nhiên, soạn giả lại tìm ra một cách giải thích khác, kèm thêm
một cái sai khác: “Chiêm
khô; mùa úng(Tiết trời hay gặp) khi làm chiêm là hanh khô (vì ít mưa);
khi làm mùa là úng ngập (vì mưa nhiều)”. Theo
cách giải thích này, soạn giả đã biến câu tục ngữ nói về nỗi khổ cực của người
trồng lúa trên vùng đất canh tác khó khăn thành câu tục ngữ có nội dung nhận
xét về đặc điểm “thời tiết hay
gặp” của vụ chiêm và vụ
mùa”.
"Gà lấm lưng:
Khi chọi nhau, gà ngã ngửa lưng chấm đất
là không còn chọi được nữa".
Gà mái "lấm lưng". |
Nguyễn
Cừ lại “cù” độc giả rồi! Chọi gà mà cũng có luật “lấm lưng trắng bụng” như môn
vật của người sao? Thực ra câu tục ngữ của Nguyễn Cừ vốn có hình thức đầy
đủ là: “Gà lấm lưng, chó sưng đồ”. “Gà
lấm lưng” là con gà mái đã đến thời kỳ chịu trống bắt đầu đẻ trứng (nên còn
gọi gà nhảy ổ đẻ). Vì con gà trống nhảy lên lưng “đạp mái” nên gà mái mới bị
lấm lưng. “Chó sưng đồ” là con chó
cái có biểu hiện động dục (“đồ” là bộ phận sinh dục của nó-thời kỳ này còn gọi
chó tơ, cầy tơ). “Gà lấm lưng, chó sưng
đồ” đều béo, thịt ngon, bởi con vật đã trưởng thành, nhưng không quá già,
không quá non.
"Gắt như mắm tôm:
mắm tôm để quá kỹ nên có mùi gắt khó
chịu, ám chỉ người hay cáu gắt, quát mắng người khác".
Thực
ra, mắm tôm “để quá kỹ” hay không quá
kỹ đều rất gắt, bởi đặc tính của mắm tôm là vừa mặn vừa nồng, ngon mồm nhưng
ghét mũi.
"Cây sát lá, cá tróc vảy:
Kinh nghiệm cây cảnh sát lá mới ra hoa,
cá tróc vảy mới sạch".
Câu
này Nguyễn Cừ đã đoán sai hoàn toàn so với ý dân gian muốn nói. “Cây sát lá, cá tróc vảy” (Dị bản: Cây chạm lá, cá chạm vảy) là hai điều
bất lợi đối với cây trồng, vật nuôi. Bởi cây quang hợp bằng lá, và hút dinh
dưỡng bằng bộ rễ. Nếu cây luôn bị động chạm đến lá, dập gẫy lá (đồng nghĩa với gốc cũng bị lung lay) sẽ ốm yếu, còi
cọc, không sinh trưởng được. Vảy cá giống như bộ da, tấm áo giáp giúp cá chống
lại sự xâm nhập của các loại vi khuẩn, nấm bệnh trong môi trường nước. Cá bị
tróc vảy chậm lớn, dễ sinh bệnh tật. Bởi vậy, còn có dị bản: “Cây chọn mất lá,
cá chọn mất vảy”, cây giống lựa chọn, nâng lên đặt xuống nhiều lá sẽ bị dập
gẫy, không tốt; cá giống lựa chọn, bắt lên, bỏ xuống nhiều sẽ bị tróc vảy, dễ
ốm hoặc chết sau khi thả xuống ao.
"Một
tiền gà, ba tiền thóc: Bỏ ra ba đồng mới thu về được một đồng. Ví dụ như thu hoạch được một bồ
lúa thì phải bỏ ra bao nhiêu công sức như cày cấy giống, má, phân bón và công
sức lao động".
Nghĩa
đen nằm ngay trong bản thân câu tục ngữ, không hiểu sao Nguyễn Cừ lại đi lấy chuyện cày cấy, chăm bón để ví với chuyện nuôi gà? Mà so sánh rất khập
khiễng.
Nghĩa đen:
Nuôi gà không có lãi, vì gà ăn phạm vào lương thực. Tiền gà bán đi chỉ một đồng, nhưng vì tiền đó nhìn thấy được, nên
tưởng là lãi, tuy nhiên thực tế chi phí thóc để nuôi chúng mỗi ngày một ít (khó thấy), nếu
quy ra tiền lại tới những ba đồng. “Một”
và “ba” là con số tượng trưng cho số
ít và số nhiều, tạo sự đối lập. Nghĩa
bóng: có thể áp dụng câu tục ngữ cho nhiều trường hợp sản xuất kinh doanh
lãi giả, lỗ thật khác.
Tục
ngữ, thành ngữ thường lấy các sự vật, hiện tượng xung quanh để làm “giáo cụ
trực quan” cho nghĩa đen, qua đó đúc rút kinh nghiệm về quan hệ ứng xử trong
gia đình, xã hội. Bởi vậy, người “giải
nghĩa tục ngữ” không những cần phải hiểu biết về những “giáo cụ” (đồ vật) đó
mà còn phải có hiểu biết về phong tục, tập quán, tâm lý, các mối quan hệ truyền
thống trong gia đình, xã hội. Xem ra, về mặt này, Nguyễn Cừ cũng chưa đủ điều
kiện để làm sách “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”:
"Nêu
cao nhưng bóng chẳng ngay: Cây nêu ngày Tết cao nhưng bóng của nó ngả xuống cong, suy ra con người
có quyền cao chức trọng nhưng phẩm cách cũng chẳng ra gì".
Cây nêu ngày Tết |
Vì
sao “Cây nêu ngày Tết cao nhưng bóng của
nó ngả xuống cong”? Đã dám đặt tên
sách là “Giải nghĩa tục ngữ Việt Nam”
thì phải “giải” cho bạn đọc hiểu rõ
“nghĩa” của nó chứ?
Cây
nêu ngày Tết sở dĩ nó cao nhưng “bóng
chẳng ngay” (bóng không thẳng) là vì bản thân cây nêu không bao giờ thẳng.
Cây nêu không thẳng, vì nó được làm bằng cả một cây tre tươi, phần ngọn cong
cong, rủ xuống như cái cần câu. Vậy, cây nêu tuy cao nhưng thân không thẳng,
thân không thẳng thì bóng chẳng ngay. Ở đây dân gian còn chơi chữ ở hai từ “nêu
cao”: ai đó ở vị trí bề trên, ra điều muốn “nêu cao” phẩm giá làm gương cho
người khác, nhưng bản thân mình lại chẳng ra gì!
"Mồng
ba ăn rốn, mồng bốn ngồi trơ: Tháng tư là tháng giáp hạt, nếu tháng ba không ăn dè sẻn thì tháng tư
sẽ bị đói".
Tục
ngữ đang nói chuyện “mồng”, sao
Nguyễn Cừ lại đổi sang “tháng”? Dân
ta có câu cửa miệng: “Ba ngày Tết” hoặc “Đói giỗ cha, no ba ngày tết”...Làm
lụng vất vả quanh năm, Tết đến, nhà ai cũng cố gắng no đủ. Nhưng, con cháu hay
ông bà tổ tiên, người sống cũng như người đã khuất cũng chỉ đủ đầy, hương khói
trong ba ngày Tết. Ngày mồng ba là ngày cuối cùng của ba ngày Tết, nên gọi “ăn
rốn”, bánh chưng, giò chả gì đó cũng “tổng vét”. Sang mồng bốn, “ngồi trơ”, coi
như trở lại ngày thường, hết Tết. Không chỉ “ngồi trơ”, vì không có cái gì ăn,
mà còn “ngồi trơ” vì công việc đồng áng đã làm xong trước Tết cả. Câu tục ngữ
phản ánh phong tục tập quán, cũng là điều kiện kinh tế, vật chất, lao động sản xuất thời kỳ bấy
giờ. (Dị bản: Mồng ba ăn rốn, mồng bốn ngồi không).
"Đi
đâu chẳng lấy học trò, thấy người ta đỗ thập thò mà trông:
Cảnh học trò xem kết quả thi".
Nguyễn
Cừ cho rằng “cảnh học trò xem kết quả
thi” là cách giải thích vừa qua loa, đại khái, vừa không đúng.
Thực
ra đây là câu ca chế giễu cô con gái nào đó, trước kia không để ý gì đến anh
học trò nghèo (có khi chê học trò “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”), nay thấy
người ta đỗ đạt, được “Vinh quy bái tổ” về làng thì “tiếc của” thập thò đứng
trông. “Thập thò” ở đây thể hiện tâm trạng vừa tò mò, nuối tiếc, vừa xấu hổ, vì
nhớ đến chuyện xưa. Nghĩa bóng có thể áp dụng cho nhiều trường hợp: chê trách hoặc chế giễu ai đó vì thờ ơ mà bỏ
lỡ mất cơ hội tốt, đến khi nhận ra, nuối tiếc thì đã muộn.
"Vắng
trẻ quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp: Không có trẻ con nhà hiu quạnh, không có đàn
bà bếp lạnh tanh. Ý nói tình cảm gia đình phải có đông đủ già trẻ, trai, gái
mới vui".
Nghĩa
bóng câu này nhằm đề cao vai trò người phụ nữ trong gia đình. Họ
không chỉ là người giữ lửa trong căn bếp, mà còn giữ cho không khí gia đình luôn
nồng ấm. Giải thích “phải có đông đủ già
trẻ, trai, gái mới vui”, e rằng chung chung quá.
"Xưa
kia ai cấm duyên bà, bây giờ bà già bà cấm duyên tôi:
Lời oán thán của người con gái muốn lấy
chồng nhưng không được người trong gia đình ủng hộ mà ngược lại chê bai, thậm
chí cấm đoán".
Trước
đây, chỉ có chuyện “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”, làm gì có chuyện “người
con gái muốn lấy chồng” lại bị gia đình “chê
bai, thậm chí cấm đoán”. Mà nhân vật trong câu tục ngữ xưng “tôi”, gọi “bà” kia mà? Thực ra, nghĩa đen tục ngữ nói đến một trường hợp rất
cụ thể: Cô con dâu (tôi) là góa phụ, muốn “đi bước nữa” (tái giá), nhưng bị
(bà) mẹ chồng ngăn cấm. Tuy nhiên, xưa kia khi còn trẻ, gặp chuyện “nửa đường đứt gánh”, chính bà mẹ chồng
cũng từng tái giá. Ấy thế nên cô con dâu góa chồng mới “vặn” lại mẹ chồng: Xưa
kia, chính bà đã từng muốn tái giá như tôi (và thực tế bà đã tái giá), không
bị ai ngăn cấm, sao bây giờ tôi muốn “đi
bước nữa” như bà từng đi, lại bị bà ngăn cấm? Cái hay của câu tục ngữ ở cụm từ
“bây giờ bà già”. Vì bà đã già, bà
không còn lửa lòng, khát vọng của tuổi trẻ nữa, nên bà mới ngăn cấm người khác
một cách ích kỷ. Nghĩa bóng và cách dùng rộng hơn: Bản thân mình từng mong muốn hoặc làm việc gì đó không bị ai cấm đoán,
bởi vậy, nếu người khác cũng có mong muốn giống mình thì không nên ích kỷ cấm
đoán.
"Chùa
nát nhưng có Bụt vàng, tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng:
Quan hệ trong gia đình dòng tộc, mất
người này còn người khác, mất cha còn mẹ, mất anh còn em. Khẳng định dòng tộc
gia đình mãi mãi tồn tại".
Câu
này, Nguyễn Cừ đã lạc đề. Xin tham khảo một số dị bản và cách giải thích của “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”-Vũ Dung-Vũ Thuý Anh-Vũ Quang Hào-NXB Văn hóa-2000 (sau đây gọi Vũ Dung): “Đất sỏi có chạch vàng [Cá
khô có trứng; Chùa đổ có Phật vàng; Chùa rách có Bụt vàng; Chùa rách Phật vàng;
Chùa đất Phật vàng] Nơi nghèo nàn, khó khăn lại nảy sinh người tốt, của
quý”.
"Đánh
bẫy còn chê đực cái: ý nói về anh em đâu được lựa chọn cũng như: Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nhà nghèo, dẫu thế nào cũng là anh em".
Không
hiểu sao Nguyễn Cừ lại có thể liên tưởng đến chuyện lựa chọn anh em ở đây được? Bởi vì, nghĩa đen của câu tục ngữ là: một người nào đó đặt bẫy bắt muông thú,
mong muốn sẽ được con đực (hoặc con cái). Tuy nhiên, khi bẫy sập, con thú nằm
trong bẫy lại không như ý. Thế là chê ỏng chê eo! Nghĩa bóng: trong hoàn cảnh có được điều gì đó do may
mắn thì không nên kén cá chọn canh.
"Chẳng
thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An: Ca tụng các cô gái Hà thành kinh đô
thanh tao, lịch sự".
Thực
ra, câu này ca ngợi, khẳng định “chất” thanh lịch của người Tràng An (Kinh đô)
chứ không chỉ riêng các “cô gái Hà
thành”.
"Cổ
cao ba ngấn: Nét
đẹp của con gái đài các, giàu có".
Câu
này chỉ được xem là quán ngữ, chưa
đủ tiêu chuẩn để gọi là tục ngữ hay thành ngữ. Hơn nữa, đây cũng không phải “Nét đẹp của con gái đài các, giàu có”
mà là quan niệm về cái đẹp của con gái từ ngày xưa : cổ cao, thanh tú, ba ngấn khỏe
mạnh (cũng là phúc tướng).
"Cá
chậu chim lồng:
Cá, chim nuôi làm cảnh,
trái với môi trường tự nhiên".
Câu
thành ngữ này phải được giải thêm nghĩa bóng: cuộc đời bị giam hãm, tù túng, có
khi đủ đầy, nhàn hạ nhưng không có tự do.
"Cá
gặp nước, rồng gặp mây: Sinh vật cũng rất cần môi trường tự nhiên đúng như thiên nhiên mà nó
sinh sống".
Câu
này Nguyễn Cừ mới hiểu nôm na theo nghĩa đen. Nghĩa bóng phải được hiểu: gặp
được cơ hội, môi trường thuận lợi, phù hợp để phát triển năng lực.
"Cá
không ăn muối cá ươn: Thực tế tự nhiên khi cá bị ươn (chết đã lâu) ướp muối không ngấm vào
thịt cá được, cũng như con người can bảo khuyên nhủ mãi không nghe sao cũng có
ngày tai họa".
Xin
lưu ý, tục ngữ nói “Cá không ăn muối cá
ươn”, diễn giải: Cá không ăn (không
được ướp muối) thì cá sẽ bị ươn, chứ không phải “Cá ươn cá không ăn muối”
diễn giải: cá ươn là cá không ăn (ướp
muối) được. Nguyên câu tục ngữ là: “Con không nghe lời mẹ cha, cá không ăn
muối cá ươn”. Nghĩa đen: ướp muối là
cách bảo quản cá rất tốt. Khi được ướp muối, cá tươi lâu hơn, sau đó cá phân
hủy thành mắm thơm ngon, chứ không bị thối, bị ươn, bỏ đi. Nghĩa bóng: Con cái không nghe lời dạy bảo của mẹ cha cũng giống
như con cá không được ướp muối, sẽ bị ươn, thối rữa, thành đồ bỏ đi chứ không
có ích gì, đến lúc ấy thì đã muộn.
"Cá
mạnh về vây: Cá
dùng vây vừa làm bánh lái, vừa tạo sức mạnh bơi nhanh. Cá có bộ vây tốt chính
là cá khỏe. Nhiều loại cá có vây rất quý, ví dụ như con cá mập to vậy cũng chỉ
quý nhất là bộ vây ăn ngon và chữa được nhiều bệnh tật".
Nguyễn
Cừ đã giải nghĩa đúng về sức mạnh của vây con cá theo nghĩa đen. Tuy nhiên, có
lẽ tác giả quá thạo về văn hóa ẩm thực, nên mới đưa cả món vây cá mập cao cấp ở
các nhà hàng vào đây để “giải thích”. Theo đó, nên chữa câu tục ngữ Việt Nam
thành: “Cá mập giá trị ở bộ vây”, mới hợp chăng? Các dị bản: Cá mạnh về vây hay Chim có cánh, cá có vây; Chim mạnh về cánh, cá mạnh về vây, đều ý
nói: mỗi người có thế mạnh riêng, sở trường riêng của mình để hoạt động, tồn
tại.
"Vợ
dại không hại bằng đũa vênh: Đôi đũa cái ngắn cái dài là tối kỵ, suy ra vợ chồng cũng vậy, phải bằng
nhau, ngang nhau mới hạnh phúc".
Câu
này, Nguyễn Cừ đã hiểu sai nghĩa của từ “vênh”.
“Vênh” đây là cong vênh của chiếc đũa, chứ không phải sự dài ngắn của đôi đũa. Vì
cong, vênh, nên đũa mới khó gắp. Nếu cái dài, cái ngắn vẫn gắp được như thường. Vũ Dung đưa thêm một dị bản “Vợ dại không hại bằng đũa cong” và
giải nghĩa: “Đũa cong vênh khó gắp”.
Tham
khảo thêm nghĩa đen: Chuyện đũa vênh bây giờ thật khó
tưởng tượng. Tuy nhiên, trước đây, cuộc sống thiếu thốn trăm bề, cái bát ăn
cũng không có đủ (phải dùng cả bát sứt, bát làm bằng gáo dừa). Đến như đôi đũa
(dù có thể tự làm được) cũng chẳng ra đôi đũa. Bởi ngày thường cái ăn còn chưa
có, chưa đủ, mấy ai để ý, chăm chút cái bát, đôi đũa cho thật đẹp, thật tốt?
Đến khi có đình đám, thôi thì trăm kiểu đũa, kiểu bát. Chẳng may vớ phải đôi
đũa vênh (cong do vót bằng tre non, tre cụt ngọn, có mắt) thì rất khó gắp (tựa
người bị cứng tay, hay mới tập ăn bằng đũa hoặc gắp bằng tay trái vậy). Mà ăn
đông người, cỗ bàn có hạn, gắp mãi chẳng được một miếng thì chỉ có nước chịu
đói, chịu thiệt. Lấy phải vợ dại (vụng về, không khôn ngoan, tháo vát) đã là
thiệt thòi vất vả, khổ sở rồi, thế nhưng cũng không hại bằng đũa vênh. Đây là
cách nói thậm xưng thường thấy của dân gian, nhằm nhấn mạnh sự thiệt thòi khi
ăn bằng đôi đũa vênh.
"Chuồn
chuồn đạp nước: Chuồn
chuồn bị rơi xuống nước đạp mãi cũng không bay lên được, cũng như con người yếu
đuối làm mãi việc gì cũng chẳng xong, dân gian có câu: “làm như chuồn chuồn đạp
nước bao giờ mới xong”.
Chuồn chuồn đẻ trứng vào một chiếc lá trên mặt nước. |
Dân
gian gọi “Chuồn chuồn đạp nước” để chỉ hành động việc làm lớt phớt, qua
loa, đại khái của ai đó. Tuy nhiên, nghĩa đen không phải như Nguyễn Cừ giải
thích. Gọi là chuồn chuồn đạp nước
nhưng thực chất là nó chấm cái đuôi vào cánh bèo, hoặc chiếc lá trên mặt nước (nên còn có dị bản: Chuồn chuồn chấm nước; Chuồn chuồn lẹo nước) mục đích để đẻ trứng trên đó, chứ không
phải “chuồn
chuồn bị rơi xuống nước”. Ấu trùng chuồn chuồn sống trong bèo, rong rêu,
trưởng thành sẽ lột xác hóa thành chuồn chuồn (Thế nên dân gian mới có câu: Biết đâu được tổ con chuồn chuồn).
"Dạ
cá, lòng chim: Đó
là hai thứ không có giá trị, thường làm cá, chim đều bỏ cả bụng, ruột đi, chỉ
lấy lại tý gan; ý chê những người lòng dạ nhỏ nhen, như dạ cá lòng chim vậy".
Lại
thêm một câu Nguyễn Cừ suy diễn nghĩa đen. Thành ngữ có câu: “Bóng chim, tăm cá” ý nói rất khó dò tìm
hai đối tượng này, bởi cá lặn dưới nước, chim bay trên trời. Hình ảnh của cá,
của chim còn khó xác định, huống gì là tâm địa của nó. Bởi vậy, “Dạ cá, lòng chim” ý nói tâm địa sâu
kín, phản trắc khó lường chứ không phải “hai
thứ không có giá trị” vì “làm cá,
chim đều bỏ cả bụng, ruột đi, chỉ lấy lại tý gan” và “ý chê những người lòng dạ nhỏ nhen, như dạ cá lòng chim” mà Nguyễn
Cừ võ đoán.
"Con
mắt là mặt đồng cân:
Con mắt là quan trọng trong khuôn mặt, mắt thể hiện tính người, mắt làm khuynh
gia bại sản nhiều kẻ đa tình, mắt là mặt đồng cân là vậy".
Cách
giải thích của Nguyễn Cừ phiến diện, đi quá xa ý nghĩa câu tục ngữ. Bạn đọc có
thể tham khảo cách giải nghĩa của Vũ Dung: “Con
mắt người ta chỉ nhìn cũng ước lượng được giá trị của vật, người có con
mắt tinh đời thoáng qua cũng phân biệt được cái hay, cái dở; Nhìn mắt cũng biết
người khôn ngoan hay khờ dại.” Thế
nên Tục ngữ Mường cũng có câu: "Lấy
mắt mà nhìn, không cần lấy tay mà sờ [Lế
mặt mà hẩu ó phải lế say mà rơ]"; Tục ngữ
Hán: "Nhân nhãn nan hổng-人眼難哄-Mắt người khó lừa; Nhân nhãn thị bả xứng-人眼是把稱-Mắt người là cái cân".
"Mặt
lầm lầm như tát nước đầm: Khuôn mặt bực tức, lầm lì như nước đầm đục đen lúc tát nước bắt cá".
Xin
lưu ý thành ngữ nói “như tát nước đầm”
chứ không phải như nước đầm.
Đầm Vân Long-Ninh Bình |
Muốn
hiểu đúng câu thành ngữ phải xem “đầm” là cái gì đã. Đầm thường được hiểu là
một vùng trũng, rộng lớn, nước sâu, luôn có nguồn cấp nước, dùng để giữ nước,
nuôi cá, thả sen (đầm sen) hoặc bỏ hoang (đầm Dạ Trạch-Hưng Yên). Đầm nước lợ có khi cực
rộng, được cấp nước bởi các nhánh sông nhỏ, thông ra biển (như đầm Ô Loan-Phú
Yên). Nói chung, đầm thường lớn và không có bờ kín như ao hồ. Bởi vậy, việc tát
nước đầm là công việc rất khó nhọc, tưởng như vô vọng. Tát nước trong tình
trạng không biết bao giờ cho nó cạn; vơi tí nào, nguồn nước từ mương máng, kênh
rạch lại chảy vào thì vui vẻ thế nào được ? Thế nên còn có dị bản: “Mặt
lầm lầm tát nước đầm không cạn” (Việt Nam tự điển-Hội khai trí tiến
đức)
Thành
ngữ tục ngữ Việt Nam có nhiều câu gốc Hán. Mà thành ngữ, tục ngữ gốc Hán lại
hay xuất phát từ một tích truyện nào đó. Bởi vậy, người “giải thích tục ngữ Việt Nam” cần phải có kiến thức sâu rộng, đọc
nhiều, tham khảo nhiều và ít nhất cũng phải có chút ít kiến thức về Hán Nôm. Tuy
nhiên, dường như Nguyễn Cừ không chỉ "yếu" về mảng tục ngữ Việt, mà còn thiếu hụt khá trầm trọng kiến thức, hiều biết về tục
ngữ, thành ngữ gốc Hán. Bởi vậy, có những câu Nguyễn Cừ “mù tịt”, giải thích theo
kiểu “ võ đoán”, trong khi điều đó lại đã được bạn đọc phổ thông hiểu rõ, hoặc
được giải thích cặn kẽ trong rất nhiều cuốn sách xuất bản cách nay hàng chục
năm rồi.Ví dụ:
"Cá
chép, hóa rồng: Loại
cá chép to, sống lâu năm có vẩy to vàng như vẩy rồng, lúc mắc lưới kêu ộp ộp
như động vật trên cạn, khi bắt được những con này ngư dân thường thả trở lại để
hy vọng nó hóa thành rồng".
Phù điêu Cá chép hóa rồng |
Đây
là thành ngữ, Nguyễn Cừ nhận lầm tục ngữ và hiểu sai về cấu trúc (không có dấu
phẩy chia làm hai vế). Mặt khác, trí tưởng tượng phong phú của Nguyễn Cừ đã đem
đến cho thành ngữ một nghĩa đen khó chấp nhận. Sự tích “Lý ngư hóa long” (Cá chép hóa rồng) được truyền tụng khá phổ biến
trong dân gian. Đại khái: Trời sai rồng làm mưa chống hạn, nhưng số lượng rồng
trên trời không đủ. Trời mở cuộc thi cho các loài tôm cá vượt Vũ Môn, truyền
rằng: nếu con nào vượt được ba bậc thác Vũ Môn sẽ hóa thành rồng. Rất nhiều
loài cá đã tham gia. (Ví như họ nhà tôm tràn trề hy vọng vào tài búng nhảy trên
mặt nước, đã vượt đến bậc thứ 3 của thác, nhưng không qua nổi, ngược lại bị ngã
đau tới mức ruột gan lộn cả lên đầu, suýt chết). Duy chỉ có cá chép vượt được
ba bậc và hóa thành rồng, bay vút lên mây.
Tham khảo:
“Cá
vượt Vũ môn [Cá chép hóa rồng; Cá
gáy hóa rồng; Cá hóa rồng, Cá lý hóa long] Người học trò thi đỗ đạt vinh
hiển; Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.
Theo
truyền thuyết, ở đất Tứ Xuyên, Trung Quốc, chỗ sông Trường Giang đổ vào chân
núi có vực nước sâu do vua Vũ đào để trị thủy, nên cũng gọi là ba tầng cửa Vũ
hoặc Vũ môn, hay Long môn, nếu loài cá nào vượt qua được ba vực này thì hóa
rồng. Hàng năm vào ngày 1, 11, 21 tháng 7 âm lịch mưa to gió lớn, các loài cá
về đây để cùng nhau thi vượt Vũ môn. Trong các loài cá, chỉ có cá chép lớn ở
Nam sông Thanh Lãnh vượt được cửa Vũ ra biển hóa thành rồng, gọi là Xích long. Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cá
vượt Vũ Môn hóa rồng (ca dao)” ( theo Vũ Dung-sách đã dẫn).
Có
lẽ nhìn bề ngoài, cá chép là loài cá đẹp, lại có hai đặc điểm rất giống với
hình tượng rồng: râu rồng, vảy rồng nên dân gian đặt ra câu chuyện này chăng?
"Hà
Đông sư tử:
Vùng đất nhiều phụ nữ hay ghen".
Lại
thêm một câu Nguyễn Cừ “giải nghĩa”
qua loa cho xong chuyện. Không biết vùng đất “nhiều phụ nữ hay ghen” Hà Đông nằm ở đâu? Có phải chính là Hà
Đông-vùng đất thuộc Hà Tây cũ?
Đây
là câu thành ngữ được dùng rất phổ biến với ý chỉ người đàn bà hay ghen tuông
lồng lộn, ầm ĩ. Tích “Hà Đông sư tử” được rất nhiều sách
dẫn. Ở đây xin dẫn “Từ điển giải thích
thành ngữ gốc Hán” (Như Ý-Nguyễn Văn Khang-Phan Xuân Thành-Viện ngôn ngữ-NXB Văn hóa-1994): Trần Tạo, tự Lý Thường, tự xưng Long
Khâu tiên sinh, rất hiếu khách, có vợ là Liễu thị rất hay ghen. Bởi vậy khi
thấy các vũ nữ cùng bạn bè đến chơi thăm chồng thì nổi cơn tam bành, đập phá,
làm ầm ĩ. Tô Đông Pha, bạn của Trần Tạo, biết chuyện này đã làm thơ tặng bạn: “Long Khâu cư sĩ diệc khả liên, Đàm không
thuyết hữu, dạ bất miên, Hốt văn Hà Đông sư tử hống, Trụ thượng lạc thú, tâm
mang nhiên” (chữ “lạc thú” có lẽ chính phải là “lạc thủ”, vì “lạc thủ” mới
có nghĩa là rơi, tuột gậy khỏi tay, có lẽ do sách này in sai?-HTC chú thích)
Nghĩa là: Cư sĩ Long Khâu thật đáng
thương, Đọc kinh suốt canh thâu không ngủ, Bỗng nghe tiếng sư tử Hà Đông rống,
Chiếc gậy rơi khỏi tay, lòng hoang mang kinh sợ. Hà Đông là tên quận thời
cổ, nơi ở của họ Liễu, một gia tộc nổi tiếng của quận này từ thời Ngụy Tấn đến
Tùy Đường, ở đây chỉ Liễu thị, Sư tử hống
(sư tử gầm) nhà Phật thường lấy hình ảnh này biểu thị uy nghiêm. Mà Trần Tạo
lại hay tụng kinh niệm Phật, nhà thơ mượn hình ảnh này với ý trêu cợt".
Về
sau “Hà Đông sư tử” trở thành thành
ngữ chỉ người phụ nữ hay ghen dữ, nhưng không ám chỉ vùng đất cụ thể nào.
"Cáo giả oai hùm:
Nhiều con cáo già to không kém gì con hổ
con, lúc bị tấn công cũng nhe răng xù lông co mình lại, nhiều thợ săn tưởng
nhầm là hổ, sợ bỏ chạy. Câu này xuất phát từ hiện tượng tự nhiên để nói ai đó
hay dùng tiếng tăm của người khác, mượn danh người có chức quyền để dọa dẫm người
khác".
Minh họa "Hồ giả hổ uy" trên một con tem thời Trung Hoa dân quốc |
Một
lần nữa, chúng ta lại phải ngả mũ trước tài suy đoán, trí tưởng tượng phong phú
của Nguyễn Cừ. Trong suy nghĩ của dân gian, sức mạnh của con cáo (đặc biệt là
cáo già) là sự tinh khôn, ranh mãnh chứ không ở phải nanh vuốt, sự dữ tợn của
nó. Thành ngữ “Cáo giả oai hùm”
gốc Hán là “Hồ giả hổ uy”. Theo Từ điển thành ngữ Việt Nam-Viện ngôn ngữ học: "trong Chiến
quốc sách: “Sở Tuyên vương hỏi quần thần: Dân ở phương Bắc sợ Chiêu Hề Tuất là vì lẽ gì? Giang Ất tâu: Khi con cáo đi sau con hổ, các muông thú đều
bỏ chạy. Hổ lại tưởng muông thú sợ cáo nhưng thực ra là sợ hổ. Cũng vậy, dân
phương Bắc đâu có sợ Chiêu Hề Tuất mà chính là sợ binh giáp của hệ hạ mà thôi.” (Nguyên trong sách của Viện ngôn ngữ nói là "con chồn" HTC sửa lại là con cáo). Lời tâu của Giang Ất lại vận dụng câu chuyện ngụ ngôn: Hổ đói bắt được
một con cáo, định xé xác ăn ngay cho bõ cơn thèm. Dưới nanh vuốt hổ, cáo già run rẩy thầm nghĩ,
phen này chắc chết. Nhưng vốn là kẻ nổi tiếng tinh quái, cáo cố trấn tĩnh nói
cứng: “Dĩ nhiên là ngươi không dám ăn
thịt ta rồi. Bởi thượng đế vừa phái ta xuống hạ giới để làm đầu lĩnh muôn
loài.” Con hổ lớn xác,bụng đang rất đói, lại nghe nói vậy thì rất tức giận.
Tuy nhiên hổ cũng dừng tay, nửa tin nửa ngờ. Cáo không bỏ lỡ cơ hội: “Nếu
ngươi vẫn chưa tin, bây giờ ta sẽ đi trước, ngươi theo sau, bách thú nhìn thấy
ta sẽ hoảng sợ bỏ chạy hết cho mà xem.” Quả nhiên, cáo đi đến đâu, muông
thú đều hoảng hốt, cúp đuôi chạy trốn. Hổ đành phóng thích cáo già, trong lòng
thắc mắc không nguôi. Hổ không hề biết rằng: các loài thú bỏ chạy là do sợ hổ
chứ không phải sợ cáo (HTC kể).
Như
vậy, do không nắm được nguồn gốc câu thành ngữ, nên Nguyễn Cừ đã cố tìm ra nghĩa
đen không hề ăn nhập gì với “Cáo giả oai
hùm”. Nhưng, dù sao bạn đọc cũng cảm ơn câu chuyện “Cáo già và người thợ
săn” thật hài hước của Nguyễn Cừ!
"Gái
tơ, ngứa nghề: Chê
cười gái mới lớn mà đã lăng nhăng, lẳng lơ".
Cách nói này vốn trong “Truyện Kiều”, đoạn Tú
bà đay nghiến Kiều: “Gái tơ mà đã ngứa
nghề sớm sao”. Dẫu sau này được dân gian dùng như một thành ngữ, cũng không
thể hiểu như Nguyễn Cừ, nhằm chỉ chung “gái
mới lớn mà đã lăng nhăng, lẳng lơ” được. Bởi ở đây có chữ “nghề”. “Nghề” ở đây không gì khác là đĩ
điếm, kỹ nữ-một nghề kiếm tiền.
"Phụ
phu song toàn: Được
cả cha lẫn mẹ đều là người tốt, trường thọ. Ngày xưa khi đi chọn vợ chồng cho
con cái thường hay nói: Nhà này bố mẹ song toàn là vậy".
“Phụ”
là vợ, “phu” là chồng. Nếu quả đúng Việt Nam có câu “tục ngữ”: “Phu phụ song toàn” như Nguyễn Cừ viết thì nghĩa của nó là: được cả vợ lẫn chồng, sao bỗng dưng lại
thành “được cả cha lẫn mẹ”? Nếu “được cả cha lẫn mẹ” phải là “Phụ mẫu
song toàn” mới đúng! Tuy nhiên “Phụ mẫu song toàn” lại thường được dùng với
nghĩa là niềm vui sướng, hạnh phúc của ai đó khi cha mẹ già đều song thọ, song
toàn chứ không phải là bố mẹ vợ hoặc bố mẹ chồng đều “được cả”.
"Phụ trái
tử hoàn, tử trái phụ bất can: Câu này lấy từ nguồn Hán học, dịch tạm là: cha mẹ làm sai con cái trả,
con cái làm sai cha mẹ không phải trả".
Câu
này tác giả đã nói rõ là “dịch tạm”
chứ không phải “tạm dịch”. Tuy nhiên, dù có “dịch
tạm” đến đâu chăng nữa cũng không nên hiểu chữ “trái” nghĩa là nợ thành “trái” là sai trái.
"Tri
túc bất nhục: Biết
hiểu nhiều không ai bắt nạt được".
Lại một kiểu giải thích nôm na, võ đoán.
“Tri túc” đây
không phải là “biết hiểu nhiều” mà là
biết thế nào là đủ. Câu tục ngữ gốc
Hán này vốn là câu nói của Lão tử: “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” nghĩa
là: Biết thế nào là đủ thì không phải
chịu khổ nhục, biết dừng đúng lúc thì không bị nguy khốn. Trong thực tế, nhiều
người do tham lam (của cải, tiền tài, danh vọng, địa vị) không biết thế nào là
đủ, rốt cuộc phải chịu nhận lấy khổ nhục.
Ta có thể lấy ví dụ: ông Hồ Xuân Mãn - Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế đã lên tới tột đỉnh danh vọng, phú quý một phương. Nhưng do ông Mãn không biết thế nào là “mãn”, không “tri túc”, “tri chỉ” nên đã khai man hồ sơ để có thêm danh hiệu “Anh hùng”. Rốt cuộc, thay vì tột đỉnh vinh quang, ông Mãn đã phải chịu tột cùng nhục nhã! Hoặc có những đại quan đáng ra danh vọng, tiền tài có cả, vẫn được tiếng thanh liêm, nhưng bỗng chốc trở thành tham quan, vướng vòng lao lý. Nguyên nhân không gì khác ngoài chuyện “bất tri túc”!
Ngay như trong chuyện làm sách cũng vậy, phải biết "tri túc, tri chỉ", không nên vì chút danh tiếng "Nhà" này, "Chuyên gia" nọ, muốn ghi danh với đời mà đem cái không biết để dạy cho người biết...
Ta có thể lấy ví dụ: ông Hồ Xuân Mãn - Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên-Huế đã lên tới tột đỉnh danh vọng, phú quý một phương. Nhưng do ông Mãn không biết thế nào là “mãn”, không “tri túc”, “tri chỉ” nên đã khai man hồ sơ để có thêm danh hiệu “Anh hùng”. Rốt cuộc, thay vì tột đỉnh vinh quang, ông Mãn đã phải chịu tột cùng nhục nhã! Hoặc có những đại quan đáng ra danh vọng, tiền tài có cả, vẫn được tiếng thanh liêm, nhưng bỗng chốc trở thành tham quan, vướng vòng lao lý. Nguyên nhân không gì khác ngoài chuyện “bất tri túc”!
Ngay như trong chuyện làm sách cũng vậy, phải biết "tri túc, tri chỉ", không nên vì chút danh tiếng "Nhà" này, "Chuyên gia" nọ, muốn ghi danh với đời mà đem cái không biết để dạy cho người biết...
Trong đời con người, hàng ngày, hàng giờ, chuyện “tri túc, tri chỉ” rất cần được cân nhắc trong từng cử chỉ, hành
động. Ấy chính là lời cổ nhân muốn nhắn gửi trong lời dạy: “Tri túc bất nhục”, không phải "Biết hiểu nhiều không ai bắt nạt được" như Nguyễn Cừ hiểu lầm!
HTC 25/7/2014
Hết phần II,
Mời
bạn đọc đón xem phần III:
“Chữ
tác đánh chữ tộ, tham mà không khảo.”
Ảnh trong trang sưu tầm trên Internet.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét