Chim hạc về đỉnh núi Long (TP Thanh Hóa) Ảnh: Đặng Phương Mai |
HOÀNG TUẤN PHỔ
Sau khi lên ngôi (1802), kinh đô ở Phú
Xuân nhưng vua Gia Long rất quan tâm đến xứ Thanh, quê hương phát tích nhà Nguyễn.
Ông cho rằng: Trấn lỵ cũ của nhà Lê Trung hưng ở Dương Xá địa thế chật hẹp
không xứng với quí hương đứng đầu cả nước, phải tìm nơi hội đủ thiên thời, địa
lợi, nhân hòa. Sau thời gian xem xét, triều thần tâu chỉ có đất xã Thọ Hạc, huyện
Đông Sơn là đắc địa nhất, được vua Gia Long chuẩn tấu.
Địa danh Thọ Hạc cuối Lê đầu Nguyễn là
tên chung cả ba đơn vị, ba cấp hành chính cơ sở: thôn Thọ Hạc, xã Thọ Hạc, tổng
Thọ Hạc thuộc huyện Đông Sơn. Thọ Hạc là một làng lớn, thuộc loại “nhất xã nhất
thôn”, là thôn cũng là xã, một xã lớn nhất tổng, danh vọng đứng đầu, được cả tổng
lấy làm tên chung. Thọ Hạc là tên chữ nho, “Thọ” là sống lâu, “Hạc” là chim hạc,
người xưa cho rằng chim Hạc sống lâu muôn tuổi, thọ cùng trời đất. Địa danh Thọ
Hạc duy nhất ở đây, cả miền Bắc không nơi nào có, dù chỉ đồng âm không đồng
nghĩa.
Hạc là một giống chim (không phải là cò
vạc gì đó như có nhà nghiên cứu lầm tưởng). Tầm vóc chim hạc lớn bằng hoặc hơn
ngỗng trời (Thiên nga), sống ẩn dật, ưa yên tĩnh, thích kiếm ăn nơi đầm nước, hồ
ao vắng vẻ, mò bắt tôm cá. Xưa kia địa thế làng Hạc rất rộng lớn. Dân làng cư
trú tập trung chỗ thuận lợi nhất. Phía đông nam giáp làng Phú Cốc, vô số hồ chằm,
trên bờ cây cỏ um tùm, dưới nước sâu, bùn lầy, nhiều thủy sản. Mặt tây nam
làng, cồn hoang bãi rậm kéo dài mở rộng đến tận Mật Sơn và Rừng Thông.
Đầu năm 1789, vua Quang Trung hành quân
cấp tốc từ Phú Xuân ra Thanh Hoa, dừng lại duyệt binh trên bãi cao đồng làng Thọ
Hạc để phô trương thanh thế với Thang mộc nhà Lê, rồi mới hội quân Tam Điệp tiến
đánh Thăng Long. Hơn mười năm sau, cũng trên bãi đồng cao này, vua Gia Long cho
xây dựng trấn thành Thanh Hoa, trong dư âm, tiếng quân reo, voi gầm, ngựa hý
quân Tây Sơn, còn nghe mơ hồ đâu đây trong làn gió thoảng.
Để bảo vệ trấn lỵ, thành trì xây dựng đồng
loạt khắp nước, thành trấn nào mang tên trấn ấy. Theo quy định chung, thành trấn
lỵ Thanh Hoa tên đơn vị hành chính là thành
trấn Thanh Hoa hay Thanh Hoa trấn
thành. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1832) đổi tên trấn ra tỉnh, mới gọi là Thanh
Hoa tỉnh thành. Năm 1841, vua Thiệu Trị kiêng chữ Hoa tên húy Hồ Thị Hoa mẹ nhà
vua đã được sắc phong Hoàng Thái hậu, phải đổi gọi là Hóa, dĩ nhiên tên gọi tỉnh
thành cũng thay “Thanh Hóa tỉnh thành”.
Thành tỉnh Thanh Hóa các sách Đại Nam nhất thống chí, Đồng Khánh địa dư chí, Thành Thái Đại Nam nhất
thống chí đều chép thống nhất: Thành Thanh Hóa xây bằng gạch đá, cao 1 trượng,
chu vi 630 trượng, có 4 cửa, hào rộng 8-9 trượng, sâu 7 thước (Mỗi trượng là 10
thước, mỗi thước bằng 0m40). Điều các tài liệu địa chí không nói, thành không
xây theo kiểu truyền thống 4 mặt tượng trưng 4 phương trời cũng là tượng trưng
của đất (trời tròn đất vuông) theo kiến trúc truyền thống phương Đông, mà theo
kiểu “lục lăng” (sáu cạnh). Sách Thanh
Hóa tỉnh chí giải thích thành “Lục lăng” theo kiểu thành “Lục Hoa” của Lý
Tĩnh đời Đường Thái tông. Không đúng. Vì “Lục Hoa” của Lý Tĩnh là “Lục hoa trận
pháp” hay trận đồ, không phải kiểu thành xây mà là cách bày trận đánh địch. Lý
Tĩnh dựa vào “Bát trận đồ” của Khổng Minh Gia Cát mà đặt ra. Nó không có hình
“lục lăng”. Theo cách giải thích của Lý Tĩnh trong sách Võ kinh: Ở ngoài thì hình vuông ở trong thì vòng tròn, biến hóa
khôn lường là Lục Hoa trận pháp.
Thành tỉnh Thanh Hóa cũng như nhiều
thành tỉnh trong nước xây dựng theo kiểu Vauban (Vô băng) tên một kỹ sư người
Pháp, rất phổ biến ở Pháp thế kỷ XVII, XVIII, nhưng đến thế kỷ XIX bắt đầu trở
thành lạc hậu, không đủ sức chống lại súng đại bác có sức công phá lớn mới phát
minh. Bởi vậy, năm 1885, thành Thanh Hóa đã bị Pháp chiếm dễ dàng. Sau đó,
thành trở thành nơi ở của bộ máy cai trị gồm ba quan lớn tỉnh dưới quyền điều
khiển của viên công sứ người Pháp. Trong thành có trại lính, dinh thự, kho
tàng, cả trại giam để tra tấn, đánh đập dã man những chiến sĩ yêu nước và cách
mạng. Năm 1947, thành Thanh Hóa bị phá hoại cùng với phố xá, quyết tâm kháng
chiến trường kỳ. Từ đây thành Thanh Hóa vĩnh viễn đi vào lịch sử. Nhưng có một
tên thành Thanh Hóa khác của đời sống văn hóa vẫn sống, còn sống mãi, không ngừng
tỏa lộc đâm chồi, nở hoa kết trái không chỉ trong lòng nhân dân xứ Thanh. Đó là
thành Hạc, Hạc Thành !
Khó có thể biết hai tiếng thành Hạc hay
chữ Hạc Thành bắt đầu xuất hiện từ bao giờ? Câu thơ dân gian khá nổi tiếng:
Thanh
Hoa thắng địa là nơi
Rồng
vờn hạt ngọc, hạc bơi chân thành.
Một bức họa biểu tượng, do trí tưởng mà
cũng từ hiện thực. Vì nơi thắng địa này, một vùng núi sông kỳ thú: Hàm Rồng,
Hòn Ngọc (Bắc), Sông Mã (Đông), Long Chầu, Hổ Phục (Nam), Thiên Trụ (Ba cột đá
chồng đỡ bầu trời, phía Tây). Và cánh chim Hạc nghìn xưa còn bay, bay, bay mãi
trên đất Thọ Hạc này.
Khoảng những năm bảy mươi của thế kỷ
XIX, khi quân Pháp chưa xâm chiếm tỉnh Thanh, triều đình Nguyễn cử triều thần
Tôn Thất Thuyết làm Tổng đốc đất quý hương. Ông xây dựng gần phía trước cửa Tả
tỉnh thành một ngôi lầu đặt tên Huyền Hạc lâu – lầu Huyền Hạc để nghỉ ngơi sau
việc nước. Hoàng Hạc lâu Trung Quốc từng nổi tiếng với câu thơ Thôi Hiệu: “Hạc Vàng nay đã đi đâu – Nghìn năm mây trắng
trên đầu vẫn bay”. Huyền Hạc lâu đã bị quân Pháp hủy hoại để làm đường mở
phố. Nó trở thành một nhân chứng lịch sử về tội ác xâm lược của đế quốc, thực
dân. Nhà thơ yêu nước, chí sĩ cách mạng Nguyễn Thượng Hiền (người Hà Đông cũ,
nay thuộc TP Hà Nội) đỗ Hoàng Giáp năm 1892. Gia đình ông có nhà riêng ở núi
Nưa, nên rất gắn bó với Thanh Hóa. Ông lại là con rể Binh bộ Thượng thư Tôn Thất
Thuyết đứng đầu phe chủ chiến, chống Pháp đến cùng. Nguyễn Thượng Hiền không muốn
làm quan, khi về núi Nưa, lúc ở lầu Huyền Hạc. Ông đau lòng trước cảnh quê
hương, đất nước bị chiến tranh tàn phá bởi thực dân Pháp xâm lược. Na Sơn và Hạc
Thành là những đề tài quen thuộc trong thơ ông. Bài Hạc Thành xuân vọng sáng tác bằng chữ Hán, Nguyễn Thượng Hiền viết
tại lầu Huyền Hạc, trước cảnh giặc Tây nhốn nháo trong thành Hạc:
Sông núi xa mờ chốn quí hương
Cờ
Tây trông bóng, lệ tràn thương!
Nước
bon ngựa đá chân còn đất
Mây
cuốn xe loan bụi lấp đường
Bè
lái đêm côi, sao khuất bóng,
Kèn
thành mai lạnh, cỏ đầm sương.
Lầu
cao mắt dõi sầu khôn tả
Lăng
miếu, kinh thành khói tỏa vương.
(Hoàng Tuấn Phổ dịch thơ)
Trong bài Thư hoài (Tả mối cảm hoài), Nguyễn Thượng
Hiền có câu: “Hạc Phố thư lai trần dục ám – Huyền Lâu kiếm trụy nguyệt cô minh"
nghĩa là "Hạc Phố thư về làm bụi thẳm - Lầu Huyền gươm nảy mảnh trăng
đơn"
Như vậy, Thanh Hóa có Hạc Thành, có cả Hạc Phố,
trong thành trì, ngoài phố xá. Hạc Thành và Hạc Phố, tên nào cũng hay, cũng đẹp,
đều nói về một "thắng địa" bậc nhất xứ Thanh. Hiếm thấy một vùng đất
hội tụ đầy đủ khí thiêng sông núi: Rồng vờn hạt châu, ngựa thần tung vó, long
chầu hổ phục cùng chim bái, Huyền hạc không bay về trời mà đậu lại... trong
lòng người, trong văn chương để đưa những vần thơ ý đẹp lời hay cất cánh bay
lên.
Có lẽ nhà thơ Phạm Thanh (1820 - 1863) nói
đến Hạc Thành, Hạc Phố sớm nhất trong thơ mình. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1851, giữ
chức Tham trị bộ lại, mất sớm (43 tuổi), tác phẩm Nghị Trai thi văn tập. Bài
thơ tiễn bạn Phạm Thúc Minh từ Huế lên đường nhậm chức Án sát Thanh Hóa, Phạm Thanh
Viết:
Phiên âm:
Long Hạm phong
kỳ, Mã thủy thanh
Lâm phong
tương tống phiếm phàm khinh
Du nhân khước
hữu tư gia mộng
Dạ dạ tòng
quân đáo Hạc Thành.
Dịch thơ:
Sông Mã trong
xanh, biếc núi Rồng,
Buồm đi gió
tiễn nhẹ xuôi dòng.
Nhớ quê tôi có
về trong mộng
Thành Hạc đêm
dài, bác thấy không?
(Hoàng Tuấn Phổ dịch)
Hạc Thành, Hạc Phố, cái tên đã đi vào lịch
sử. Nó không còn là danh xưng của một tòa thành hay một phố xá, đã thành biểu
trưng một vùng thắng địa, một thành phố lớn của Xứ Thanh - thành phố Thanh Hóa.
Thành
phố Thanh Hóa thời cách mạng, đổi mới và hội nhập với nhiều tiềm năng và văn
hóa - kinh tế, du lịch đang nổi lên như là thế mạnh đầy hứa hen. Tuyến du lịch
phía bắc Hạc Thành từ núi Ngọc, Hàm Rồng mở ra thời gian sâu thẳm trong không
gian bao la, đến với đỉnh cao văn minh Đông Sơn thời Hùng Vương, rồi ngược lên
bốn mươi vạn năm trước, thuở cái nôi loài người đu đưa trên núi Đọ mang dáng
Rùa thiêng bên dòng sông Mã. Đằng nam Hạc
Phố cũng là một thế giới kỳ diệu soi bóng lung linh vào truyền thuyết và thơ
ca:
Đồn rằng Cầu Bố vui thay
Bên đông có
tỉnh, bên tây có chùa
Ở giữa có miếu
thờ vua
Dưới sông nước
chảy đò đưa dập dềnh...
(Ca dao dân gian)
Thái miếu Bố Vệ đã được tôn
tạo, chùa Mật Sơn đã được khôi phục. Còn nhiều di tích đang chờ bàn tay tái tạo:
núi Long, núi Hổ, hòn Kim Đồng, hòn Ngọc Nữ đứng soi bóng dòng sông Lê... Bên
kia Cầu Bố là Quảng Thắng với di chỉ văn hóa trống đồng Đông Sơn, Quảng Thịnh với
Núi Voi hùng vĩ, chung quanh một quần thể
di tích cỏ kính: Chùa Phủ, Văn miếu, nhà thờ Trịnh Huệ, vị Trạng Nguyên cuối
cùng của nước ta,... Những thi gia nổi tiếng như Lê Thánh Tông, Nguyễn Khuyến,
Học Lạc... cũng đã từng dừng gót hài lãng du đôi bờ sông Bố Vệ, ngâm, đề những
vần thơ tuyệt tác.
Cầu Bố xưa kia
là thượng gia hạ kiều của đất quê vua nhà Lê; đưa con đường thiên lý từ Nam ra
Bắc, qua Cầu Hàm Rồng bất tử, pho "tượng đài" kỳ vĩ xây bằng 108 máy
bay siêu cường của đế quốc Mỹ xâm lược. Đó cũng là xương sống con chim Hạc khổng
lồ mà đôi bên phố phường thành phố Thanh Hóa như đôi cánh mênh mông không ngừng
mở rộng đang vẫy lên bầu trời tương lai bao la đầy hứa hẹn.
HTP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét