Hoàng Tuấn Công
Tàu Hải cảnh Trung Quốc tấn công tàu Kiểm ngư Việt Nam bằng vòi rồng |
Nhiều người sẽ có câu trả lời ngay. Thậm chí bực mình: “Của Tàu chứ còn gì nữa, chẳng lẽ lại của Ta !?” Tuy nhiên, trong thực tế, không phải ai cũng hiểu biết được như vậy. Cách đây một năm, Báo Giáo dục Việt Nam (Giáo dục.net.vn) thứ ba ngày 16/4/2013 có bài: “Sinh viên Việt Nam 'mù tịt' về tàu hải giám, ngư chính Trung Quốc?!” Bài báo cho biết:
“Để tìm hiểu nhận thức của học sinh, sinh viên về chủ quyền biển
đảo, nhóm PV Báo Giáo dục Việt Nam
đã thực hiện một cuộc khảo sát nhỏ (phỏng vấn ngẫu nhiên) với khoảng 40 sinh
viên thuộc các Trường ĐH Thương Mại, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Công nghệ, ĐH Mở và
ĐH Sư phạm Hà Nội, với 4 câu hỏi cơ bản:
1. Trung Quốc gọi quần đảo của
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là gì?(đáp
án: Tây Sa và Nam Sa)
2. Trung Quốc đang bành trướng
trên biển Đông bằng việc phái các tàu chuyên dụng gì ra biển Đông (ngoài tàu
đánh cá và tàu quân sự)? (đáp án: tàu Hải
giám, Ngư chính)
3. Trung Quốc cố tình vẽ ra
đường phi pháp gì trên bản đồ biển Đông vi phạm chủ quyền Việt Nam và một số
nước Đông Nam Á? (đáp án: đường lưỡi bò)
4. Sự kiện mới đây nhất liên
quan đế tàu cá của Việt Nam và tàu Trung Quốc là gì? (tàu Trung Quốc bắn cháy ca-bin tàu cá Việt Nam)
Điều đáng buồn là, hầu hết sinh
viên không trả lời được 2 câu đầu tiên, đa phần trả lời được câu số 3, và rất
ít trả lời được câu số 4 (chứng tỏ ít theo dõi thời sự biển đảo quan trọng của
đất nước). Bi hài ở chỗ, có sinh viên nhận thức kiểu nghe loáng thoáng, trả lời
"râu ông nọ cắm cằm bà kia", khi nói Trung Quốc gọi Trường Sa, Hoàng
Sa của Việt Nam là... “đảo lưỡi bò” (thực tế chỉ có khái niệm "đường lưỡi
bò"). Hoặc buồn không kém khi một số chủ nhân trong tương lai gần của
đất nước hầu như không biết khái niệm tàu Hải giám, Ngư chính - 2 loại tàu thể
hiện âm mưu thâm độc và chiến lược mới của Trung Quốc nhằm bành trướng, độc
chiếm biển Đông...” (Trích từ Báo
Giáo dục Việt Nam lúc 8 giờ 41 phút ngày 21/5/2014)
Về những ý kiến thảo
luận, Báo GDVN cho biết: “Bên cạnh nhiều
ý kiến chê trách thì cũng có độc giả cho rằng không nên vội trách sinh viên
chính vì công tác tuyên truyền về biển đảo chưa được tốt.
Bạn Ngô Tuấn Dũng viết: “Tôi nghĩ những người
được phỏng vấn không phải đại diện cho phần lớn sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên
kết quả như thế này thì khá kém. Trách sinh viên một phần thì trách các cơ quan
truyền thông, truyền hình, báo chí, tổ chức hội sinh viên, đoàn thanh niên 10
phần”.
Bạn Lê Quang Hải nêu ra một thực tế: “Sinh viên, học sinh và
rất nhiều người dân cũng chưa biết về Trường Sa, Hoàng Sa đang bị Trung Quốc
chiếm đóng một số đảo và chiếm đóng bằng cách nào. Tại sao Trung Quốc chiếm
đóng các đảo ở Trường Sa, Hoàng Sa mà người dân chúng ta không được biết ví dụ
như: Để mất đảo lớn Gạc Ma hy sinh 64 người, thế
mà nhà nước chúng ta không công bố, không tuyên truyền cho người dân được biết.
Nếu chúng ta kêu gọi nhân dân đứng lên bảo vệ các đảo thì làm gì để mất các đảo
về tay Trung Quốc? Hiện nay, công tác tuyên truyền của chúng ta quá yếu, không
có hệ thống và chiều sâu. Để lúc nào kẻ thù vào chiếm các đảo của chúng ta mới
kêu gọi thì đã quá muộn”.
Bạn Nguyễn Hùng: “Xin đừng đổ hết lỗi
cho sinh viên, lỗi đây chính là do nền giáo dục (nó bét đến nỗi không thể tạo
được thành cái hình gì cả). Do sự nhún nhường thái quá không dám cho phơi nên
mặt báo thì làm sao đạị bộ phận sinh viên không biết là đúng thôi. Mới đây mới
dám đưa nên đôi chút. Chỉ có người quan tâm đến thời sự chính trị thì mới biết
thôi. Nói thực là chỗ tôi làm có khoảng 400 CBCNV, nếu được trả lời những câu
hỏi trên tôi xin cam đoan đếm dưới 10 đầu ngón tay có thể trả lời được câu hỏi
này”.
Bạn Đinh Phùng Đạt tán đồng: “Đừng vội vàng trách
sinh viên, nên suy nghĩ sâu hơn, mọi thông tin tuyên truyền thời sự hầu như là
không có phần đa thời lượng phái sóng trên truyền hình đều là show game này kìa
giành cho showbiz làm loạn. Phần giáo dục thì suốt ngày cải cách, thành tích chả
được cái gì”.
Tuy nhiên, ý kiến của
bạn Minh cũng chỉ ra rất rõ: “Đúng là công tác tuyên truyền của Việt Nam còn
tồn tại nhiều vấn đề (bao gồm cả việc dạy sử lẫn thông tin tuyên truyền), tuy
nhiên nguyên nhân quan trọng là do sự thờ ơ của chính bản thân sinh viên, chủ
nhân tương lai của đất nước. Bây giờ là thời đại thông tin. Họ hoàn
toàn có thể tìm hiểu những thông tin này thông qua các phương tiện truyền
thông, đặc biệt là Internet. Rất nhiều bạn trẻ tuy thường xuyên truy cập
Internet nhưng không phải để tìm hiểu những thông tin bổ ích mà chỉ để chat
chit, chơi game hoặc thậm chí tìm kiếm những thông tin không lành mạnh” (Báo Giáo Dục)
Chúng tôi cho rằng những ý kiến đa chiều trên đây
của bạn đọc đã giải thích phần nào nguyên nhân nhiều người Việt Nam không có
được những hiểu biết chính xác, cần
thiết về tình hình và những từ, ngữ liên quan đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo nước nhà.
Đã hàng chục năm nay, khi tạm lắng, lúc sôi sục,
những từ, ngữ như: ngư chính, hải giám, hải cảnh, tuần duyên, đường lưỡi bò,
đường chín đoạn...thường được
báo chỉ nhắc đến, gắn với những cuộc gây hấn liên tục của Trung Quốc như áp đặt lệnh cấm đánh
bắt cá phi lý, bắt bớ ngư dân Việt Nam, cắt cáp tàu Bình Minh 2, v.v...Thông thường, mỗi khi gặp một từ ngữ khó hiểu
trên sách báo hoặc giao tiếp hàng ngày, chúng ta tìm đến Từ điển tiếng Việt.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là khi tìm trong hàng chục sách Từ điển tiếng Việt,
có cuốn dày tới cả mấy ngàn trang cũng không hề thu thập và giải thích những từ
này. Dường như những “hải giám”, “ngư chính” nó tận đẩu tận đâu và chẳng liên quan gì đến xứ
ta. Chỉ duy nhất cuốn “Từ điển tiếng
Việt” (Hoàng Phê chủ biên-Trung tâm từ điển học Vietlex tái bản, sửa
chữa bổ sung gần đây nhất là 2013 và 2014) thu nhận và giải thích hai từ “ngư chính” và “hải giám”. Tuy nhiên, cuốn từ điển này lại giải thích không
đến nơi, đến chốn, có thể gây hiểu lầm, lẫn lộn “địch với ta” rất tai hại. “Từ điển tiếng Việt” (sách đã dẫn) giải thích các từ “ngư chính”, “hải giám”, “kiểm ngư” như sau:
-“Ngư chính: danh từ: ngành quản lý các hoạt động đánh bắt thủy sản nói chung.
-“Hải giám: động từ, danh từ:
+động từ: giám sát đường biển. tàu hải giám.
+danh từ: cơ quan giám sát đường biển.
-Kiểm ngư: động từ. kiểm soát việc chấp hành pháp luật trong khai thác và bảo vệ nguồn
thủy, hải sản. trạm kiểm ngư. cán bộ kiểm ngư.”
Cách giải thích trên của Từ điển tiếng Việt khiến nhiều người lầm tưởng ở Việt Nam bên cạnh
lực lượng “kiểm ngư”, ta
cũng có “ngư chính” và “hải giám”. Nhưng xem ảnh chụp những hoạt động gây hấn, xâm
phạm vùng biển Việt Nam chúng ta thấy rõ những chữ viết rất lớn trên thân tàu
Trung Quốc như: Trung Quốc ngư chính
中國漁政, Trung Quốc hải giám 中國海監, hoặc Trung Quốc
hải cảnh 中國海警. Trong khi tàu của
Việt Nam có dòng chữ là: Kiểm ngư Việt
Nam hay Cảnh sát biển Việt Nam. Như vậy “ngư chính” 漁政 và “hải giám” 海監 (hay Hải cảnh 海警) là cách người Việt Nam nói và viết tắt theo nguyên
văn tiếng Trung Quốc phiên âm Hán-Việt (không dịch) để gọi những công cụ và
hoạt động trên biển của riêng phía Trung Quốc.
Trở lại vấn đề Từ
điển tiếng Việt giải thích “Ngư
chính: danh từ: ngành quản lý các hoạt động đánh bắt thủy sản nói
chung”. Vậy nếu bạn đọc
hỏi lại: cái “ngành” đó ở đâu, trực
thuộc Bộ, Cục, Sở... nào của Việt Nam ? Hoặc “Hải giám: danh từ: Cơ quan giám sát đường biển”. Vậy xin hỏi “cơ quan giám sát đường biển” nào của Việt Nam có tên là “Hải giám” ? Rồi “tàu hải giám” là của ai, đi “giám sát đường biển” nào ? Chúng tôi tin các nhà biên soạn từ điển sẽ
không giải thích được nếu không gắn với những công cụ và hoạt động trên biển
của phía Trung Quốc. Đến từ điển còn lơ mơ như vậy, hỏi sao sinh viên không “mù
tịt về tàu hải giám, ngư chính” ?
Chúng
ta có thể so sánh phương pháp, nguyên tắc của người làm từ điển thế này: khi
thu nhận từ “hà mã”, Từ điển tiếng Việt (cũng như đa số các
sách từ điển khác) đều giải thích: “Hà
mã: thú lớn gần với lợn, da trần và dày, đầu to, mõm rộng, mắt nhỏ, tai ngắn,
ăn cỏ, thường sống thành đàn ở vùng
sông, đầm châu Phi”. Hoặc như: “Chuột
túi: thú di chuyển bằng cách nhảy bằng hai chân sau, con cái có túi ở trước
bụng để đựng con mới đẻ, có nhiều ở
Australia. Đồng nghĩa: kangaroo”. Như vậy, Việt Nam không có hà mã và chuột túi, nhưng nhiều người biết đến hai loài thú này nên từ điển đã thu nhận. Tuy nhiên các
nhà biên soạn đã đúng khi nói rõ nguồn gốc “châu Phi” và “Autralia”
của chúng. Vậy khi giải thích các từ “ngư
chính” và “hải giám” từ điển cũng
cần chú thích rõ cái “bản quán” bên Trung Quốc của nó để phân biệt với lực
lượng kiểm ngư của Việt Nam.
Bản
thân chúng tôi cũng không biết nên tìm hiểu chính xác và chính thống các từ hải giám, ngư chính ở đâu. Đành phải tìm
đến Từ điển “Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia”:
“Hải giám: Hải giám Trung Quốc Trung văn giản thể: 中国海监总队; bính âm: Zhōngguó Hǎijiān Zǒngduì, Hán-Việt: Trung Quốc Hải giám Tổng
đội; tiếng Anh: China Marine Surveillance) là cơ (quan giám sát hàng hải của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Hải giám là một trong 5 tổ chức hành pháp liên quan
đến bờ biển ở quốc gia này, gồm: Tuần duyên - lực lượng quân sự tuần tra bờ
biển; Ủy ban an toàn hàng hải - chịu trách nhiệm tìm kiếm và giải cứu ven biển;
Ngư chính - quản lý các hoạt động đánh cá; Hải quan - giám sát ngăn chặn buôn
lậu; và giám sát, kiểm tra, theo dõi các vùng biển, hải phận thuộc Trung Quốc.
Hải giám là tổ chức được thành lập mới đây nhất trong các cơ
quan nêu trên, vào năm 1998. Cơ quan này thực chất là lực lượng cảnh sát của Cục Hải
dương Nhà nước Trung Quốc (trực thuộc Quốc
vụ viện), chịu trách nhiệm các vùng nước không thuộc lãnh thổ lãnh
hải Trung Quốc, ở những nơi mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố vùng đặc quyền kinh
tế của mình. Hải giám cũng là cơ quan thực thi luật môi trường
của Trung Quốc tại các vùng duyên hải.
“Để tìm hiểu nhận thức của học sinh, sinh viên về chủ quyền biển
đảo, nhóm PV Báo Giáo dục Việt Nam
đã thực hiện một cuộc khảo sát nhỏ (phỏng vấn ngẫu nhiên) với khoảng 40 sinh
viên thuộc các Trường ĐH Thương Mại, ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Công nghệ, ĐH Mở và
ĐH Sư phạm Hà Nội, với 4 câu hỏi cơ bản:
1. Trung Quốc gọi quần đảo của
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là gì?(đáp
án: Tây Sa và Nam Sa)
2. Trung Quốc đang bành trướng
trên biển Đông bằng việc phái các tàu chuyên dụng gì ra biển Đông (ngoài tàu
đánh cá và tàu quân sự)? (đáp án: tàu Hải
giám, Ngư chính)
3. Trung Quốc cố tình vẽ ra
đường phi pháp gì trên bản đồ biển Đông vi phạm chủ quyền Việt Nam và một số
nước Đông Nam Á? (đáp án: đường lưỡi bò)
4. Sự kiện mới đây nhất liên
quan đế tàu cá của Việt Nam và tàu Trung Quốc là gì? (tàu Trung Quốc bắn cháy ca-bin tàu cá Việt Nam)
Điều đáng buồn là, hầu hết sinh
viên không trả lời được 2 câu đầu tiên, đa phần trả lời được câu số 3, và rất
ít trả lời được câu số 4 (chứng tỏ ít theo dõi thời sự biển đảo quan trọng của
đất nước). Bi hài ở chỗ, có sinh viên nhận thức kiểu nghe loáng thoáng, trả lời
"râu ông nọ cắm cằm bà kia", khi nói Trung Quốc gọi Trường Sa, Hoàng
Sa của Việt Nam là... “đảo lưỡi bò” (thực tế chỉ có khái niệm "đường lưỡi
bò"). Hoặc buồn không kém khi một số chủ nhân trong tương lai gần của
đất nước hầu như không biết khái niệm tàu Hải giám, Ngư chính - 2 loại tàu thể
hiện âm mưu thâm độc và chiến lược mới của Trung Quốc nhằm bành trướng, độc
chiếm biển Đông...” (Trích từ Báo
Giáo dục Việt Nam lúc 8 giờ 41 phút ngày 21/5/2014)
Về những ý kiến thảo
luận, Báo GDVN cho biết: “Bên cạnh nhiều
ý kiến chê trách thì cũng có độc giả cho rằng không nên vội trách sinh viên
chính vì công tác tuyên truyền về biển đảo chưa được tốt.
Bạn Ngô Tuấn Dũng viết: “Tôi nghĩ những người
được phỏng vấn không phải đại diện cho phần lớn sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên
kết quả như thế này thì khá kém. Trách sinh viên một phần thì trách các cơ quan
truyền thông, truyền hình, báo chí, tổ chức hội sinh viên, đoàn thanh niên 10
phần”.
Bạn Lê Quang Hải nêu ra một thực tế: “Sinh viên, học sinh và
rất nhiều người dân cũng chưa biết về Trường Sa, Hoàng Sa đang bị Trung Quốc
chiếm đóng một số đảo và chiếm đóng bằng cách nào. Tại sao Trung Quốc chiếm
đóng các đảo ở Trường Sa, Hoàng Sa mà người dân chúng ta không được biết ví dụ
như: Để mất đảo lớn Gạc Ma hy sinh 64 người, thế
mà nhà nước chúng ta không công bố, không tuyên truyền cho người dân được biết.
Nếu chúng ta kêu gọi nhân dân đứng lên bảo vệ các đảo thì làm gì để mất các đảo
về tay Trung Quốc? Hiện nay, công tác tuyên truyền của chúng ta quá yếu, không
có hệ thống và chiều sâu. Để lúc nào kẻ thù vào chiếm các đảo của chúng ta mới
kêu gọi thì đã quá muộn”.
Bạn Nguyễn Hùng: “Xin đừng đổ hết lỗi
cho sinh viên, lỗi đây chính là do nền giáo dục (nó bét đến nỗi không thể tạo
được thành cái hình gì cả). Do sự nhún nhường thái quá không dám cho phơi nên
mặt báo thì làm sao đạị bộ phận sinh viên không biết là đúng thôi. Mới đây mới
dám đưa nên đôi chút. Chỉ có người quan tâm đến thời sự chính trị thì mới biết
thôi. Nói thực là chỗ tôi làm có khoảng 400 CBCNV, nếu được trả lời những câu
hỏi trên tôi xin cam đoan đếm dưới 10 đầu ngón tay có thể trả lời được câu hỏi
này”.
Bạn Đinh Phùng Đạt tán đồng: “Đừng vội vàng trách
sinh viên, nên suy nghĩ sâu hơn, mọi thông tin tuyên truyền thời sự hầu như là
không có phần đa thời lượng phái sóng trên truyền hình đều là show game này kìa
giành cho showbiz làm loạn. Phần giáo dục thì suốt ngày cải cách, thành tích chả
được cái gì”.
Tuy nhiên, ý kiến của
bạn Minh cũng chỉ ra rất rõ: “Đúng là công tác tuyên truyền của Việt Nam còn
tồn tại nhiều vấn đề (bao gồm cả việc dạy sử lẫn thông tin tuyên truyền), tuy
nhiên nguyên nhân quan trọng là do sự thờ ơ của chính bản thân sinh viên, chủ
nhân tương lai của đất nước. Bây giờ là thời đại thông tin. Họ hoàn
toàn có thể tìm hiểu những thông tin này thông qua các phương tiện truyền
thông, đặc biệt là Internet. Rất nhiều bạn trẻ tuy thường xuyên truy cập
Internet nhưng không phải để tìm hiểu những thông tin bổ ích mà chỉ để chat
chit, chơi game hoặc thậm chí tìm kiếm những thông tin không lành mạnh” (Báo Giáo Dục)
Chúng tôi cho rằng những ý kiến đa chiều trên đây
của bạn đọc đã giải thích phần nào nguyên nhân nhiều người Việt Nam không có
được những hiểu biết chính xác, cần
thiết về tình hình và những từ, ngữ liên quan đến cuộc đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo nước nhà.
Đã hàng chục năm nay, khi tạm lắng, lúc sôi sục,
những từ, ngữ như: ngư chính, hải giám, hải cảnh, tuần duyên, đường lưỡi bò,
đường chín đoạn...thường được
báo chỉ nhắc đến, gắn với những cuộc gây hấn liên tục của Trung Quốc như áp đặt lệnh cấm đánh
bắt cá phi lý, bắt bớ ngư dân Việt Nam, cắt cáp tàu Bình Minh 2, v.v...Thông thường, mỗi khi gặp một từ ngữ khó hiểu
trên sách báo hoặc giao tiếp hàng ngày, chúng ta tìm đến Từ điển tiếng Việt.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là khi tìm trong hàng chục sách Từ điển tiếng Việt,
có cuốn dày tới cả mấy ngàn trang cũng không hề thu thập và giải thích những từ
này. Dường như những “hải giám”, “ngư chính” nó tận đẩu tận đâu và chẳng liên quan gì đến xứ
ta. Chỉ duy nhất cuốn “Từ điển tiếng
Việt” (Hoàng Phê chủ biên-Trung tâm từ điển học Vietlex tái bản, sửa
chữa bổ sung gần đây nhất là 2013 và 2014) thu nhận và giải thích hai từ “ngư chính” và “hải giám”. Tuy nhiên, cuốn từ điển này lại giải thích không
đến nơi, đến chốn, có thể gây hiểu lầm, lẫn lộn “địch với ta” rất tai hại. “Từ điển tiếng Việt” (sách đã dẫn) giải thích các từ “ngư chính”, “hải giám”, “kiểm ngư” như sau:
-“Ngư chính: danh từ: ngành quản lý các hoạt động đánh bắt thủy sản nói chung.
-“Hải giám: động từ, danh từ:
+động từ: giám sát đường biển. tàu hải giám.
+danh từ: cơ quan giám sát đường biển.
-Kiểm ngư: động từ. kiểm soát việc chấp hành pháp luật trong khai thác và bảo vệ nguồn
thủy, hải sản. trạm kiểm ngư. cán bộ kiểm ngư.”
Cách giải thích trên của Từ điển tiếng Việt khiến nhiều người lầm tưởng ở Việt Nam bên cạnh
lực lượng “kiểm ngư”, ta
cũng có “ngư chính” và “hải giám”. Nhưng xem ảnh chụp những hoạt động gây hấn, xâm
phạm vùng biển Việt Nam chúng ta thấy rõ những chữ viết rất lớn trên thân tàu
Trung Quốc như: Trung Quốc ngư chính
中國漁政, Trung Quốc hải giám 中國海監, hoặc Trung Quốc
hải cảnh 中國海警. Trong khi tàu của
Việt Nam có dòng chữ là: Kiểm ngư Việt
Nam hay Cảnh sát biển Việt Nam. Như vậy “ngư chính” 漁政 và “hải giám” 海監 (hay Hải cảnh 海警) là cách người Việt Nam nói và viết tắt theo nguyên
văn tiếng Trung Quốc phiên âm Hán-Việt (không dịch) để gọi những công cụ và
hoạt động trên biển của riêng phía Trung Quốc.
Trở lại vấn đề Từ
điển tiếng Việt giải thích “Ngư
chính: danh từ: ngành quản lý các hoạt động đánh bắt thủy sản nói
chung”. Vậy nếu bạn đọc
hỏi lại: cái “ngành” đó ở đâu, trực
thuộc Bộ, Cục, Sở... nào của Việt Nam ? Hoặc “Hải giám: danh từ: Cơ quan giám sát đường biển”. Vậy xin hỏi “cơ quan giám sát đường biển” nào của Việt Nam có tên là “Hải giám” ? Rồi “tàu hải giám” là của ai, đi “giám sát đường biển” nào ? Chúng tôi tin các nhà biên soạn từ điển sẽ
không giải thích được nếu không gắn với những công cụ và hoạt động trên biển
của phía Trung Quốc. Đến từ điển còn lơ mơ như vậy, hỏi sao sinh viên không “mù
tịt về tàu hải giám, ngư chính” ?
Chúng
ta có thể so sánh phương pháp, nguyên tắc của người làm từ điển thế này: khi
thu nhận từ “hà mã”, Từ điển tiếng Việt (cũng như đa số các
sách từ điển khác) đều giải thích: “Hà
mã: thú lớn gần với lợn, da trần và dày, đầu to, mõm rộng, mắt nhỏ, tai ngắn,
ăn cỏ, thường sống thành đàn ở vùng
sông, đầm châu Phi”. Hoặc như: “Chuột
túi: thú di chuyển bằng cách nhảy bằng hai chân sau, con cái có túi ở trước
bụng để đựng con mới đẻ, có nhiều ở
Australia. Đồng nghĩa: kangaroo”. Như vậy, Việt Nam không có hà mã và chuột túi, nhưng nhiều người biết đến hai loài thú này nên từ điển đã thu nhận. Tuy nhiên các
nhà biên soạn đã đúng khi nói rõ nguồn gốc “châu Phi” và “Autralia”
của chúng. Vậy khi giải thích các từ “ngư
chính” và “hải giám” từ điển cũng
cần chú thích rõ cái “bản quán” bên Trung Quốc của nó để phân biệt với lực
lượng kiểm ngư của Việt Nam.
Bản
thân chúng tôi cũng không biết nên tìm hiểu chính xác và chính thống các từ hải giám, ngư chính ở đâu. Đành phải tìm
đến Từ điển “Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia”:
“Hải giám: Hải giám Trung Quốc Trung văn giản thể: 中国海监总队; bính âm: Zhōngguó Hǎijiān Zǒngduì, Hán-Việt: Trung Quốc Hải giám Tổng
đội; tiếng Anh: China Marine Surveillance) là cơ (quan giám sát hàng hải của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa. Hải giám là một trong 5 tổ chức hành pháp liên quan
đến bờ biển ở quốc gia này, gồm: Tuần duyên - lực lượng quân sự tuần tra bờ
biển; Ủy ban an toàn hàng hải - chịu trách nhiệm tìm kiếm và giải cứu ven biển;
Ngư chính - quản lý các hoạt động đánh cá; Hải quan - giám sát ngăn chặn buôn
lậu; và giám sát, kiểm tra, theo dõi các vùng biển, hải phận thuộc Trung Quốc.
Hải giám là tổ chức được thành lập mới đây nhất trong các cơ
quan nêu trên, vào năm 1998. Cơ quan này thực chất là lực lượng cảnh sát của Cục Hải
dương Nhà nước Trung Quốc (trực thuộc Quốc
vụ viện), chịu trách nhiệm các vùng nước không thuộc lãnh thổ lãnh
hải Trung Quốc, ở những nơi mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố vùng đặc quyền kinh
tế của mình. Hải giám cũng là cơ quan thực thi luật môi trường
của Trung Quốc tại các vùng duyên hải.
Theo kế hoạch của Trung Quốc, lực lượng của Hải giám sẽ tăng quân số từ 9.000 lên 10.000 người, mua thêm 36 tàu tuần tra. Hải giám thời điểm 2011 có 300 tàu và 10 máy bay. Ngoài ra, Hải giám cũng thu thập và điều phối dữ liệu từ các hoạt động của tổ chức tại 10 thành phố lớn và 170 đơn vị hành chính khác ở vùng vùng duyên hải”.Tuy nhiên, theo bài “Lực lượng Hải cảnh Trung Quốc (CCG) là công cụ quyền lực để Bắc Kinh cụ thể hóa những yêu sách chủ quyền phi pháp của mình trên biển” (Soha.vn) thì thông tin về các loại tàu “ngư chính”, “hải giám”, “hải cảnh” của Trung Quốc được cập nhật hơn: “Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG) gọi tắt là Hải cảnh được thành lập tháng 03/2013 bằng cách hợp nhất các lực lượng Hải giám (CMS), Cảnh sát biển của Cục quản lý biên phòng (BCD), Cơ quan đảm bảo thực thi pháp luật Ngư nghiệp (FLEC/Ngư chính) cùng Tổng cục Hải quan và Cơ quan Hải dương Trung Quốc (GAC).
Trước khi được sáp nhập vào Hải cảnh thì Hải giám và Cảnh sát biển của Cục quản lý biên phòng là 2
lực lượng có quy mô lớn nhất.
Việc hợp nhất 4 lực lượng hàng hải thành
một tổ chức thống nhất, nằm dưới sự điều hành của một cơ quan chủ quản duy nhất
là một phần trong kế hoạch đầy tham vọng nham hiểm của Trung Quốc nhằm phát
triển lực lượng tuần duyên có quy mô và sức mạnh ngang bằng với các nước như
Mỹ, Nhật Bản...”
Điều
đáng chú ý, trong khi Hải giám, Ngư
chính-những công cụ và hoạt động rất thâm hiểm của Trung Quốc có lịch sử 16
năm hoạt động và thường xuyên vi phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, thì ngày
15/4/2014, Bộ NN&PTNT mới tổ chức lễ ra mắt lực lượng Kiểm ngư Việt Nam. Đây là lực lượng có chức năng tuần tra, kiểm
soát phát hiện xử lý vi phạm pháp luật và thanh tra chuyên ngành thủy sản trên
các vùng biển của Việt Nam. Đồng thời hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân yên tâm sản xuất,
bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tham gia bảo vệ an ninh trật tự trên biển và góp
phần tham gia bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên Biển
Đông. Mới ra đời được nửa tháng, vào ngày 01.05.2014, lực lượng
Kiểm ngư Việt Nam non trẻ đã phát hiện và phải đối mặt với giàn khoan nước sâu khổng
lồ HD 981 và lực lượng bảo vệ hùng hậu của Trung Quốc hạ đặt khoan trái phép, thăm
dò ở nam đảo Tri Tôn 17 hải lý, vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Điều đáng nói, trong những ngày cả nước sục sôi khí thế chống
giặc Tàu, tin tức, bài vở về vùng biển Hoàng Sa tràn ngập trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Thế nhưng có người vẫn nhầm lẫn tàu Kiểm ngư Việt Nam với tàu Ngư
chính của Trung Quốc. Đơn cử bài “Cộng đồng Việt Nam tại Bỉ hướng về biển đảo quê hương” (báo Dân trí (18/5/2014) dẫn lại bài của Việt Nam thông tấn xã, mục Tin
tức) viết: “Trả lời
phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Bỉ, ông Marnix Smets, Giám đốc công ty Pinakes
kêu gọi Trung Quốc nên tôn trọng luật pháp quốc tế, chấm dứt ngay hành động xâm
nhập trái phép vùng biển của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc bị cộng đồng
quốc tế lên án. Theo ông Smets, việc tàu Trung Quốc được máy bay yểm trợ đã tấn
công các tàu ngư chính và
cảnh sát biển của Việt Nam đang làm nhiệm vụ "là hành động xâm lược
không thể chối cãi". Chúng ta không rõ đó là nguyên văn lời ông Marnix
Smets nói và ông ấy đã nhầm hay người dịch, người viết bài nhầm. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, nếu ông Marnix Smets nhầm, TTXVN tại Bỉ khi dịch nên đính chính lại
cho phù hợp với thực tế và cách hiểu của người Việt Nam.
Trở lại vấn đề từ ngữ
tiếng Việt với chủ quyền biển đảo. Điều đáng khen của Từ điển tiếng Việt (Vietlex) là đã cập nhật hai từ rất “thời sự” là
“ngư chính” và “hải giám”. Tuy nhiên, điều chưa được ở đây là Từ điển đã không
giải thích đến nơi đến chốn như chúng tôi đã nói. Mặt khác, việc bổ sung những
từ này cho việc tái bản lần thứ năm của Vietlex dường như đang còn mang tính tự
phát. Do đó mục đích hướng tới độc giả còn rất lơ mơ. Mặt khác, nhiều từ liên
quan đến những hoạt động sai trái của Trung Quốc trên biển Đông được báo chí
nói đến hàng ngày chưa được Từ điển thu
nhận, giải thích một cách có hệ thống, đầy đủ như: hải cảnh,
tuần duyên, đường chín đoạn, đường lưỡi bò,v.v...
Có thể đối với những từ, ngữ như đường chín đoạn, đường lưỡi bò, các nhà làm từ điển sẽ lý giải
rằng: Việt Nam không công nhận khái niệm đó nên không đưa vào từ điển. Tuy
nhiên theo chúng tôi, dù không công nhận, nhưng hàng ngày hàng giờ, chúng ta và
cả thế giới vẫn phải đối mặt với những yêu sách ngang ngược ấy của Trung Quốc. Mà
nhiệm vụ của Từ điển là thu thập và giải thích một cách khách quan những từ
ngữ, khái niệm được dùng trong thực tế cuộc sống. Người xưa có câu “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Bởi vậy, để có thể đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược biển đảo, bác bỏ đòi hỏi
sai trái của họ, mọi người dân chúng ta trước hết phải được hiểu rõ hải giám, ngư chính, hải cảnh hay cái
gọi là đường chín đoạn, đường lưỡi bò
của Trung Quốc thực chất nó là cái gì. Kẻo không chuyện “bi hài”
như Báo Giáo Dục Việt Nam nêu: “có sinh
viên nhận thức kiểu nghe loáng thoáng, trả lời "râu ông nọ cắm cằm bà
kia", khi nói Trung Quốc gọi Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam là... đảo
lưỡi bò”, “mù tịt về tàu ngư chính,
hải giám”, hoặc gọi tàu kiểm ngư
Việt Nam là “tàu ngư chính” sẽ còn
diễn ra dài dài theo cuộc chiến chống giặc Tàu.
Chúng tôi mong rằng, các nhà biên soạn từ điển
tiếng Việt cần nhanh nhạy hơn để theo kịp tình hình thực tế và không đứng ngoài
cuộc trong việc góp phần tuyên truyền, đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Trước khi được sáp nhập vào Hải cảnh thì Hải giám và Cảnh sát biển của Cục quản lý biên phòng là 2
lực lượng có quy mô lớn nhất.
Việc hợp nhất 4 lực lượng hàng hải thành
một tổ chức thống nhất, nằm dưới sự điều hành của một cơ quan chủ quản duy nhất
là một phần trong kế hoạch đầy tham vọng nham hiểm của Trung Quốc nhằm phát
triển lực lượng tuần duyên có quy mô và sức mạnh ngang bằng với các nước như
Mỹ, Nhật Bản...”
Điều
đáng chú ý, trong khi Hải giám, Ngư
chính-những công cụ và hoạt động rất thâm hiểm của Trung Quốc có lịch sử 16
năm hoạt động và thường xuyên vi phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam, thì ngày
15/4/2014, Bộ NN&PTNT mới tổ chức lễ ra mắt lực lượng Kiểm ngư Việt Nam. Đây là lực lượng có chức năng tuần tra, kiểm
soát phát hiện xử lý vi phạm pháp luật và thanh tra chuyên ngành thủy sản trên
các vùng biển của Việt Nam. Đồng thời hỗ trợ, giúp đỡ ngư dân yên tâm sản xuất,
bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tham gia bảo vệ an ninh trật tự trên biển và góp
phần tham gia bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên Biển
Đông. Mới ra đời được nửa tháng, vào ngày 01.05.2014, lực lượng
Kiểm ngư Việt Nam non trẻ đã phát hiện và phải đối mặt với giàn khoan nước sâu khổng
lồ HD 981 và lực lượng bảo vệ hùng hậu của Trung Quốc hạ đặt khoan trái phép, thăm
dò ở nam đảo Tri Tôn 17 hải lý, vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Điều đáng nói, trong những ngày cả nước sục sôi khí thế chống
giặc Tàu, tin tức, bài vở về vùng biển Hoàng Sa tràn ngập trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Thế nhưng có người vẫn nhầm lẫn tàu Kiểm ngư Việt Nam với tàu Ngư
chính của Trung Quốc. Đơn cử bài “Cộng đồng Việt Nam tại Bỉ hướng về biển đảo quê hương” (báo Dân trí (18/5/2014) dẫn lại bài của Việt Nam thông tấn xã, mục Tin
tức) viết: “Trả lời
phỏng vấn phóng viên TTXVN tại Bỉ, ông Marnix Smets, Giám đốc công ty Pinakes
kêu gọi Trung Quốc nên tôn trọng luật pháp quốc tế, chấm dứt ngay hành động xâm
nhập trái phép vùng biển của Việt Nam. Hành động của Trung Quốc bị cộng đồng
quốc tế lên án. Theo ông Smets, việc tàu Trung Quốc được máy bay yểm trợ đã tấn
công các tàu ngư chính và
cảnh sát biển của Việt Nam đang làm nhiệm vụ "là hành động xâm lược
không thể chối cãi". Chúng ta không rõ đó là nguyên văn lời ông Marnix
Smets nói và ông ấy đã nhầm hay người dịch, người viết bài nhầm. Tuy nhiên, theo
chúng tôi, nếu ông Marnix Smets nhầm, TTXVN tại Bỉ khi dịch nên đính chính lại
cho phù hợp với thực tế và cách hiểu của người Việt Nam.
Trở lại vấn đề từ ngữ
tiếng Việt với chủ quyền biển đảo. Điều đáng khen của Từ điển tiếng Việt (Vietlex) là đã cập nhật hai từ rất “thời sự” là
“ngư chính” và “hải giám”. Tuy nhiên, điều chưa được ở đây là Từ điển đã không
giải thích đến nơi đến chốn như chúng tôi đã nói. Mặt khác, việc bổ sung những
từ này cho việc tái bản lần thứ năm của Vietlex dường như đang còn mang tính tự
phát. Do đó mục đích hướng tới độc giả còn rất lơ mơ. Mặt khác, nhiều từ liên
quan đến những hoạt động sai trái của Trung Quốc trên biển Đông được báo chí
nói đến hàng ngày chưa được Từ điển thu
nhận, giải thích một cách có hệ thống, đầy đủ như: hải cảnh,
tuần duyên, đường chín đoạn, đường lưỡi bò,v.v...
Có thể đối với những từ, ngữ như đường chín đoạn, đường lưỡi bò, các nhà làm từ điển sẽ lý giải
rằng: Việt Nam không công nhận khái niệm đó nên không đưa vào từ điển. Tuy
nhiên theo chúng tôi, dù không công nhận, nhưng hàng ngày hàng giờ, chúng ta và
cả thế giới vẫn phải đối mặt với những yêu sách ngang ngược ấy của Trung Quốc. Mà
nhiệm vụ của Từ điển là thu thập và giải thích một cách khách quan những từ
ngữ, khái niệm được dùng trong thực tế cuộc sống. Người xưa có câu “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”.
Bởi vậy, để có thể đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược biển đảo, bác bỏ đòi hỏi
sai trái của họ, mọi người dân chúng ta trước hết phải được hiểu rõ hải giám, ngư chính, hải cảnh hay cái
gọi là đường chín đoạn, đường lưỡi bò
của Trung Quốc thực chất nó là cái gì. Kẻo không chuyện “bi hài”
như Báo Giáo Dục Việt Nam nêu: “có sinh
viên nhận thức kiểu nghe loáng thoáng, trả lời "râu ông nọ cắm cằm bà
kia", khi nói Trung Quốc gọi Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam là... đảo
lưỡi bò”, “mù tịt về tàu ngư chính,
hải giám”, hoặc gọi tàu kiểm ngư
Việt Nam là “tàu ngư chính” sẽ còn
diễn ra dài dài theo cuộc chiến chống giặc Tàu.
Chúng tôi mong rằng, các nhà biên soạn từ điển
tiếng Việt cần nhanh nhạy hơn để theo kịp tình hình thực tế và không đứng ngoài
cuộc trong việc góp phần tuyên truyền, đấu tranh giữ vững chủ quyền biển đảo
thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét