Hoàng Tuấn Công
HTC:
Thưa quý độc giả !
Lẽ ra Tuấn Công Thư Phòng tiếp tục phần III kỳ 7 "Thử lý giải những sai sót để đời của
Nhà biên soạn từ điển, GS Nguyễn Lân". Tuy nhiên, tình cờ phát hiện
sách "Nhật ký trong tù và lời
bình" có quá nhiều sai sót. Bởi vậy, TCTP xin tạm dừng
loạt bài về Nhà biên soạn từ điển, GS Nguyễn Lân để nói đến một "Nhà"
khác: Nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Xuân Đức với "Nhận ký trong tù và lời
bình"
Tuấn Công Thư Phòng
Phần I
Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh
Hôm trước, tình cờ
đọc bài “Thiếp thư Bác Hồ gửi cho tướng Nguyễn Sơn...” trên Báo Hậu
Giang, thấy tác giả Trần Thư Trung viết: “Một số sách báo viết về thiếp thư Bác Hồ gửi Nguyễn Sơn có sai sót. Cuốn “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” (NXB Văn học, Hà Nội, 2012) của Lê
Xuân Đức có in chữ Hán mấy câu Bác viết trong thiếp thư nhưng lại sai 2 chữ: “Tặng”
sai thành “tống”; “đệ” (bộ cung) nghĩa là em sai thành “đệ” (bộ trúc) nghĩa là
thứ bậc”.
Tôi thầm nghĩ: thư
của Bác chỉ vẻn vẹn 12 chữ mà sai mất 2 chữ, kể cũng hơi nhiều! Lại nghĩ lại: Trần
Thư Trung và độc giả nên thông cảm. Bởi “thiếp
thư” ấy, người kể về nó thì nhiều mà tận mắt nhìn thấy nó thì ít. Riêng với
Lê Xuân Đức, không biết chữ “đệ” nghĩa là em,
khác chữ “đệ” là thứ (bậc) phải viết khác
nhau thế nào là chuyện hoàn toàn dễ hiểu. (Thực ra, “cái tội” dịch sai câu “Trí dục viên nhi hạnh dục phương” của
Lê Xuân Đức chưa được Trần Thư Trung nêu ra).
Vậy ông Lê Xuân Đức là
ai?
Ông tự giới thiệu
ngoài bìa sách kèm ảnh: “Lê Xuân Đức -Dạy
văn, viết văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VIII”.
“Mỗi năm hoa đào nở” người ta lại thấy ông Lê
Xuân Đức trịnh trọng xuất hiện trên trang nhất các báo Xuân (từ trung ương đến
địa phương) với những bài văn bình giảng thơ Bác Hồ. Tôi thường
không ngó qua những bài kiểu này của ông Lê Xuân Đức.
Thế nhưng, cách
đây ít hôm, có cô giáo dạy văn cấp III nhờ tôi thể hiện bài thơ chữ Hán của Hồ
Chí Minh trên giấy khổ rộng để làm “giáo cụ” cho các em học sinh. Cô mang theo “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê
Xuân Đức, có phần nguyên tác chữ Hán. Không khó để nhận ra sách chứa đựng đầy rẫy những sai lầm.
Cái sai đầu tiên trong “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê Xuân Đức nằm ở phần thể hiện nguyên tác chữ Hán thơ Hồ Chí Minh. Phiên âm một nơi, chữ một nơi, nghĩa một nẻo, cuối cùng thành xuyên tạc nguyên tác:
Cái sai đầu tiên trong “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê Xuân Đức nằm ở phần thể hiện nguyên tác chữ Hán thơ Hồ Chí Minh. Phiên âm một nơi, chữ một nơi, nghĩa một nẻo, cuối cùng thành xuyên tạc nguyên tác:
1.Bài
“Nạn
hữu Mạc mỗ” (Bạn tù họ Mạc):
Câu “Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm”. Nguyên
tác chữ “ngật” 吃 nghĩa
là ăn uống, lại viết thành chữ “khiết”
喫. Tuy “khiết” trong cổ văn cũng có nghĩa
là ăn uống, nhưng văn bạch thoại ít
dùng. Quan trọng hơn, nguyên tác chữ Hán của Hồ Chí Minh là “ngật” 吃, phiên âm cũng là “ngật”, sao chữ lại viết
là “khiết” 喫 ?
2.Bài “Điền Đông”:
-Câu “Đỗ tử thì thì tại thán
hu”, phiên âm đúng là “Đỗ tử” nhưng
Lê Xuân Đức lại phiên thành “Đổ tử” (
đổ dấu hỏi?) là không đúng. Bởi “đỗ tử” 肚子 (đỗ dấu ngã) cổ văn
nghĩa là cái dạ dày, văn bạch thoại
nghĩa là cái bụng. Còn phiên âm “đổ tử” (đổ dấu hỏi?) và viết là 賭子 lại hiểu thành “thằng con cờ bạc” (Nhật
ký trong tù có bài "Đổ phạm"-Người tù cờ bạc) Cũng xin lưu ý, chữ “đổ” được Lê Xuân Đức nhắc lại
hai lần trong bài.
-Câu “Bạch phạn tam nguyên bất
câu bão”, (Cơm nhạt ba đồng chẳng đủ
no). Chữ “câu” 俱 nghĩa là đủ,
lại bị viết thành câu 鉤 nghĩa là cái lưỡi câu (chữ câu
này có bộ kim 金 chỉ nghĩa và câu 句 ghi âm). Sai sót này đã đem đến cho "nguyên tác" chữ Hán một nghĩa
mới: Cơm nhạt ba đồng, chẳng có (thêm)
cái lưỡi câu để ăn cho no(!) Nhà nghiên cứu phê bình Lê Xuân Đức thật là
tài tình!
3.Bài “Sơ
đáo thiên bảo ngục” (Mới
đến nhà lao Thiên Bảo):
-Câu “Triệt dạ
hựu vô an thụy xứ” (Suốt đêm lại chẳng có chỗ ngủ yên).
Hai chữ “triệt dạ” 徹夜 có nghĩa
là suốt đêm, lại bị phiên âm thành “triệt hạ”. Đáng chú ý, trong phần “lời
bình” Lê Xuân Đức thêm hai lần nữa phiên âm “triệt dạ” thành ‘triệt hạ”. Đó
là ở trang 33 và trang 93, bài “Nhà ngục Nam Ninh”, chữ “Triệt
dạ” trong câu “Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng” (Suốt đêm đèn điện chiếu sáng rực)
lại vẫn bị Lê Xuân Đức “phiên” thành “Triệt hạ huy hoàng chiếu điện đăng”
(!) Không hiểu ý soạn giả muốn “giết" ai ở đây?
4.Bài “Đồng Chính”:
-Câu “Thủy hòa quang tuyến hẩn
sung túc” (Nước và ánh sáng thì rất đầy đủ). Chữ “hẩn” 很 trong “hẩn
sung
túc” nghĩa là rất
đầy đủ lại bị viết thành chữ cấp 彶
là rảo bước, đi mau rất vô nghĩa. (Đối với người không biết chữ Hán,
hai chữ “hẩn” 很 và cấp 彶
tưởng như một).
-Câu “Nhật nhật hoàn khai lưỡng
thứ lung” (Ngày ngày hai lần mở
cửa buồng giam). Nguyên văn chữ Hán của Lê Xuân Đức thấy viết “mỗi nhật” 每日 (mỗi ngày), nhưng phần phiên âm lại là “nhật nhật” (ngày ngày) là cớ gì
? Thế là nguyên văn một nơi, phiên âm một nẻo!
-Câu “Mỗi xan nhất chúc đỗ
không không” (Mỗi bữa một bát cháo, bụng đói cồn cào), Lê Xuân Đức phiên âm
thành “Mỗi san nhất chúc đỗ không không”
Thưa ông Lê Xuân Đức, “mỗi xan” (chữ
X) chứ không phải “mỗi san” (chữ S).
Vì “xan” 餐 mới có nghĩa là bữa ăn. Còn “san” có nhiều nghĩa. Nếu là chữ san 潸 nghĩa là chảy
nước mắt, rơi lệ đầm đìa, thì phiên
âm “Mỗi san nhất
chúc đỗ không không” lại có thể hiểu là: mỗi một lần khóc, nước mắt hòa vào bát cháo, không ăn nổi, khiến cái bụng
đói cồn cào(!)
5.Bài “Nạn
hữu đích chỉ bị” (Chăn giấy của người bạn tù):
-Câu “Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri
phủ” (Người nằm giường ngọc, trướng gấm có biết không?) Chữ “tri
phủ” bị phiên âm thành “chi phủ”.
Ở đây “tri phủ” 知否 mới có nghĩa là “biết không” ? Còn “chi
phủ” (chi là trợ từ nghĩa là cái ấy,
cái đó). Cứ “trong ý tứ mà suy”, câu “Ngọc
sàng cẩm trướng, nhân chi phủ”?
của ông Lê Xuân Đức có thể hiểu là: Ngọc sàng
cẩm trướng, người (có thích cái giường ngọc trướng gấm) đó không (!) Bằng
không, cũng chẳng biết nó là cái chi?
6.Bài “Điệt lạc” (Hụt chân ngã):
Chữ “lạc” 落 trong Điệt
lạc 跌落 (đầu đề bài thơ) có bộ thảo để biểu
nghĩa rơi rụng. (câu “Diệp lạc tri thu”
là chữ lạc 落 này). Chữ lạc 落 trong “điệt
lạc” có nghĩa là thụt (tụt) chân xuống hố mà ngã. Tuy nhiên Nhà nghiên cứu Lê
Xuân Đức lại dùng chữ lạc 洛 (có bộ thủy mà không có bộ thảo) với nghĩa chỉ địa
danh một con sông bên Tàu. Thế là “Hụt
chân thụt xuống hố sâu, nguy hiểm quá” lại thành bị ngã (xuống) con sông Lạc nguy hiểm quá!?
7. Bài “Song
thập nhất” (Ngày 11 tháng 11):
Câu “Nhưng tu nỗ lực phản công thì”
(Nhưng vẫn phải gắng sức lúc phản công”, chữ “phản công” bị phiên âm thành “phân
công”: “Nhưng tu nỗ lực phân công thì”. Theo cách của Lê
Xuân Đức, nghĩa câu thơ sẽ thành: Đến lúc
được phân công sẽ cố gắng nỗ lực(!)
8. Bài “Việt
hữu tao động” (Việt Nam có biến động):
-Chữ “tao động” 騷 動 nghĩa là rối loạn, lại được Lê Xuân Đức làm mới bằng
cách dịch thành “báo động”: “Việt Nam có
báo động”. Xin hỏi “báo động” gì trong bài thơ đó ? Lê Xuân Đức nhầm với
bài “Cảnh
báo” (Báo động) chăng?
-Câu “Vị đắc cung thân thượng chiến trường”. “Thượng
chiến trường” nghĩa là ra chiến trường,
bị phiên âm thành “thương chiến trường”.
Theo đó, câu “Vị đắc cung thân thương chiến
trường” của Lê Xuân Đức có thể hiểu là: Bản
thân chưa bị vết thương nào trên chiến trường(!)
9.Bài “Đáo
Liễu Châu” (Đến Liễu Châu)
-Câu “Thiên tân vạn khổ phi vô hạn” (Muôn cay nghìn đắng không phải là
vô hạn), chữ “tân” 辛 (nghĩa là cay)
trong “thiên tân” 千辛 nghĩa là nghìn
điều cay đắng, nhọc nhằn, bị viết thành chữ phụ 阜 nghĩa là thịnh vượng, giàu có, béo tốt. Mà “thiên phụ” 千阜 có thể hiểu là nghìn điều thịnh vượng, giàu có ?! Và “Thiên phụ, vạn khổ phi vô hạn” là: được
hưởng ngàn lần giàu có thịnh vượng nên mới phải gặp vạn khổ đắng cay, điều cái
đó không phải là vô hạn(!).
-Câu “Tỉnh lai diện thượng đới dư sầu” (Tỉnh ra trên mặt còn vương
nét sầu) chữ “đới” 帶 bị phiên nhầm thành chữ “đối”. Lại
“theo ý tứ mà suy”, câu Lê Xuân Đức phiên âm “Tỉnh lai diện thượng đối dư sầu” này có thể dịch theo cách dịch
cổ văn là: “Tỉnh ra, soi gương (đối kính) thấy
trên mặt vẫn còn buồn(!).
10. Bài “Cựu
bất đệ giải” (Giam lâu không được xét):
-Câu “Nan quan mạt bộ bội gian nan”
(Cửa ải khó, đến chặng cuối càng khó khăn). Chữ “nan quan” 難關 nghĩa là cửa
ải khó khăn, bị phiên âm thành “nam quan”, một địa danh (tên gọi khác của Hữu
Nghị quan). Thế là nguyên tác đã bị phiên âm “xuyên tạc” thành “Nam Quan mạt lộ bộ gian nan” nghĩa là:
Chặng cuối về tới ải Nam Quan thấy càng
gian nan(!)
-Chữ “mạt” 末 trong “mạt bộ” nghĩa là chặng cuối, chặng về sau, bị phiên âm thành “mát bộ”. Dân ta có kiểu nói “mát ga,
mát số” (mát từ vay mượn max = lớn, mát ga, mát số
là ga to, số lớn = điều khiển xe với
tốc độ lớn). Nếu hiểu “mát bộ” theo kiểu “mát số” (từ thông tục: mát số, mát ga = đi xe hết số, hết ga, chữ mát vay mượn max = lớn) lại cộng cả cái sai “nan quan” thành “Nam Quan” của Lê Xuân
Đức, câu thơ sẽ được hiểu: Tới ải Nam Quan,
phải đi bộ "tốc hành" nên càng thêm bội phần vất vả (!)
11. Bài “Đáo
đệ tứ chiến khu chính trị bộ” (Đến Cục chính trị chiến khu 4):
-Tên bài thơ “Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ”.
Chữ “đệ” 第 (có bộ trúc đầu) trong “đệ tứ” nghĩa là thứ (trong
thứ tự), bị viết thành chữ “đệ” 弟 nghĩa là em trai. Sự lầm lẫn này chính là trường
hợp Lê Xuân Đức thể hiện “thiếp thư” bằng chữ Hán của Bác Hồ gửi cho tướng Nguyễn
Sơn mà Trần Thư Trung nêu (đệ 弟 là em thành đệ 第 là thứ).
Chỉ khác lần này là lầm lẫn ngược lại. Nguyên nhân cũng là do với người lơ mơ về
chữ nghĩa, hai chữ “đệ” này trông “giống nhau” như gà với...cuốc!
-Câu “Trú liễu thập bát cá giam phòng” (Từng trú lại mười tám nhà lao).
Chữ “trú” 住 nghĩa là ở
trọ lại, (có bộ nhân đứng chỉ
nghĩa) bị viết thành chữ “trụ” 柱 nghĩa là cái cột (có bộ mộc chỉ nghĩa). "Trú
liễu" (ở hết) thành "trụ liễu" (cột hết) Thế là nguyên tác
chữ Hán biến thành: Hết mười tám cái cột ở
giam phòng (!) Lầm lẫn này có lẽ do dai chữ trú 住 và trụ 柱 âm đọc gần giống nhau, tự dạng nhìn
nhang nhác như nhau (đều có bộ chủ ghi âm).
12.Bài “Mông
ưu đãi” (Được ưu đãi)
Câu “Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã”. Chữ “ưu” 優 (có bộ nhân đứng) trong “ưu đãi” có nghĩa là nhiều, hơn, lại bị chép thành chữ “ưu” 憂 (không có bộ nhân đứng) nghĩa là ưu sầu,
lo buồn. Thế là nguyên tác thơ Hồ Chí Minh với nghĩa “Ông chủ nhiệm họ Lương ưu đãi ta” đã biến thành: Ông chủ nhiệm họ Lương “đãi” ta nỗi ưu sầu(!)
Đúng là chỉ có người 40 năm nghiên cứu,
phê bình thơ Bác Lê Xuân Đức mới có thể biến cái sai thành cái “có lý” như vậy!
13.Bài “Ngũ
khoa trưởng, Hoàng khoa viên” (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng)
Câu “Lưỡng nhị kiến ngã thái khả lân” (Chính Lê Xuân Đức
giảng: Hai người hai bận đến đến thăm thấy tình cảnh của ta đáng thương).
Nguyên tác là “lưỡng nhị” nhưng bị viết thành “lưỡng nhân”. Viết là “lưỡng
nhân” nhưng khi phiên âm lại là “lưỡng nhị”
! Cứ như một trò đùa vậy!
14. Bài “Bào
hương cẩu nhục” (Thịt chó ở Bào Hương):
-Phần tên bài thơ “Bào
Hương cẩu nhục”, chữ “cẩu” 狗 nghĩa là con chó, có bộ khuyển 犭ghi nghĩa, chữ cấu 句, (âm khác là câu) ghi âm lại bị biến thành chữ câu 拘 trong từ câu lưu nghĩa là bắt, bắt lấy cái gì (gồm bộ thủ
扌ghi nghĩa và chữ câu 句 ghi âm). Thế là nguyên tác chữ Hán “Bào Hương cẩu nhục” (Thịt chó ở Bào
Hương) qua phù phép của Lê Xuân Đức đã bị biến thành “Bào Hương câu nhục” (đi câu thịt (chó) ở Bào Hương!?)
Như vậy, Nhà nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh, Lê Xuân Đức nhầm lẫn lung tung cả: chữ câu
俱 (nghĩa là đủ) thành chữ câu 鈎 (nghĩa là lưỡi
câu-Bài Điền Đông) rồi lại nhầm cẩu
狗 (con chó) với câu 拘 (bắt, bắt lấy cái gì).
-Câu “Khả kiến nhất ban đệ giải
nhân”, chữ “đệ” 遞 trong “đệ giải” nghĩa là áp giải tù nhân, lại biến thành chữ “nghinh” 迎 nghĩa là đón rước. Cái sai này nguyên nhân do hai
chữ nghinh 迎 và chữ đệ
遞 nhác trông hơi giống nhau ở bộ sước 辶. Thế là
nguyên tác thơ Hồ Chí Minh áp giải tù
nhân, qua tay Lê Xuân Đức đã thành đón
rước tù nhân(!)
-Câu “Sinh hoạt hữu thời dã bất tục” (Sinh hoạt đôi khi cũng tỏ
ra sành sỏi), chữ “hữu thời” 有時 (chữ thời
có bộ nhật) nghĩa là có lúc, đôi khi, lại
bị biến thành hữu “trĩ” 峙 (chữ trĩ có bộ sơn 山 nghĩa là sừng sững, đối chọi). Nguyên nhân có lẽ
chữ “trĩ” 峙 với người không biết chữ nhác trông hơi giống chữ
thời 時 (đều có chữ tự 寺 ghi âm) và
có thể hiểu: Trong sinh hoạt có lúc đối
chọi, tranh giành nhau, nhưng vẫn giữ được lịch sự (!)
Chỉ mới chép lại bài thơ “Thịt
chó ở Bào Hương” mà soạn giả đã “chuếnh choáng hơi men”, nhìn gà hóa cuốc
đến vậy sao? Chúng tôi bình chọn “Thịt chó ở Bào Hương” là bài thơ tập trung
nhiều lỗi nhất trong sách “Nhật ký trong tù và lời bình” của
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Xuân Đức. Cũng xin độc giả tạm dừng ở con số
14 bài thơ chữ Hán với những cái sai được Nhà nghiên cứu phê bình Lê Xuân Đức
đưa vào “Nhật ký trong tù và lời bình”, phát
hành rộng rãi.
Nhận xét đầu tiên chúng tôi là: Một
người có chữ không bao giờ để xảy ra những sai sót tệ hại như Lê Xuân Đức.
Trong trường hợp phần nguyên văn chữ Hán do người khác thực hiện, sau khi sách
in xong, Lê Xuân Đức vẫn có thể phát hiện ra chữ với nghĩa nó sai thế nào cơ
mà? Và khi ấy, với “niềm đam mê thơ Bác”
(Lời tác giả) một người 40 năm đeo đuổi thơ Hồ Chí Minh, sách “Nhật ký trong tù và lời bình” sẽ bị tiêu
hủy do chính tay tác giả! Thế nhưng, từ năm 2013 đến nay, một ngàn bản sách đã
được phát hành để đến tay bạn đọc, đến với các thầy cô giáo và học sinh yêu "Ngục trung nhật ký"! (cập nhật: năm 2015, ông Lê Xuân Đức ra sách "Thẩm bình thơ chữ Hán Hồ Chí Minh". Không biết ông "thẩm bình" ra sao khi chữ nghĩa lẫn lộn linh tinh như vậy?).
Như vậy, cho
dù dòng tiểu sử “Hội viên hội nhà văn Việt
Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VIII” ghi ở phía dưới khuôn ảnh sáng ngời trí
tuệ ngoài bìa sách, Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức cũng khó có thể đổ lỗi cho
ai trong trường hợp này.
Phần “chữ” là vậy. Còn phần “lời bình”, Nhà phê bình Lê Xuân Đức “phê”
và “bình” như thế nào?
Vốn là một người dạy
văn, nên cách viết “phê bình” của Lê Xuân Đức đậm đặc chất bình giảng trong nhà
trường (Kiểu lấy “bằng bằng, trắc trắc”, “ngắt ngắt, nhịp nhịp”, “tu từ, thủ
pháp” làm trọng). Suốt mấy chục năm qua, ông Lê Xuân Đức đã làm khổ bạn đọc bằng
cách đem những lời nói trên bục giảng ấy đi đăng báo, in sách. In, đăng nhiều đến
nỗi, ông hãnh diện khi được người ta suy tôn là “chuyên gia về thơ Bác”:“Chọn một số bài thơ của các nhà thơ khác
nhau để bình mà được bạn đọc ghi nhận là điều không dễ, nhưng chọn hầu hết thơ
của một tác giả để bình, đặc biệt tác giả đó là Bác Hồ, để trở thành một chuyên gia về thơ Bác thì khó gấp bội.
Đọc những bài bình của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lê Xuân Đức, ta nhận thấy
rằng ông công phu, tâm huyết và hiệu quả” (Nhà thơ Vương Trọng-Lời in ngoài
bìa sách “Nhật ký trong tù và lời bình”).
Có lẽ ít nhiều ông Lê Xuân Đức cũng tự biết và mặc cảm với căn bệnh nghề
nghiệp của mình. Thế nên, gần đây ông cố vùng vẫy thoát khỏi cái “ao văn bình
giảng” chật hẹp để mong vẫy vùng, bơi lội trong “bể văn chương” rộng lớn. Thế
là, thay vì chỉ “bình” và “giảng”, mõ tre sách in như trước, nay ông thêm cả “phê",
"chê” thực sự.
Vậy Lê Xuân Đức
“phê” và “bình” thế nào? Thưa rằng: Trong "Nhật
ký trong tù và lời bình" ông lấy cái kiến thức nông cạn “chữ tác đánh
chữ tộ, chữ ngộ thành chữ quá” của mình ra để “phê”, và đạo văn của người khác
để “bình”. Đó cũng chính là chủ đề trong kỳ tiếp theo của chúng tôi với “Nhật ký trong tù và lời bình”-Lê Xuân
Đức-Nhà xuất bản Văn học-2013.
27/4/2014
HTC
(Hết phần
I)
Tài tài liệu tham
khảo và trích dẫn:
-Thơ
chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích - thư pháp-GS Hoàng Tranh-NXB Chính trị
quốc gia-2003.
-Nhật ký trong tù-Hồ Chí Minh-NXB Văn hóa-Viện văn học-1960.
-Nghệ thuật thư pháp với thơ Nhật ký trong tù của
Chủ tịch Hồ Chí Minh-Nguyễn Việt biên
soạn-NXB Công an nhân dân-2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét