Hoàng Tuấn Công
Phần hai
Phần hai
Đạo văn để bình văn
Trong
Lời
tác giả Lê Xuân Đức viết: "Với
niềm đam mê thơ Bác, chúng tôi đã chuyên tâm nghiên cứu và thẩm bình thơ Bác từ
năm 1973 đến năm 2013 này, tròn 40 năm, và đã hoàn thành việc thẩm bình toàn bộ
133 bài thơ của Nhật ký trong tù.
Trong sách "Nhật ký trong tù và lời bình"
này, chúng tôi không đưa vào sách 39 bài thơ đã bình và một số bài bình khác
chúng tôi đã in trên các sách báo mà chỉ đưa những bài bình các bài thơ chưa ai
bình và chọn một số bài thể hiện tư tưởng chính trị của "Nhật ký trong tù để thấy sự nhất quán của cả tập thơ. Về thẩm
bình toàn bộ "Nhật ký trong
tù" chúng tôi sẽ công bố thời gian tới".
Chúng
ta chưa vội xem
Chuyên gia số một về thơ Bác dạy người "thẩm bình" thơ như thế nào. Ta
hãy xem Lê Xuân Đức đạo văn để bình văn ra
sao.
Căn
nhà xảy ra vụ này có tên "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư
pháp". Khổ chủ là soạn giả GS Hoàng Tranh- Phó viện
trưởng Viện khoa học xã hội Quảng Tây. Ông là người có nhiều công trình nghiên
cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh như: Hồ Chí Minh với Trung Quốc (NXB Giải
phóng quân) Hồ Chí Minh-Thơ trong tù-Chú thích (NXB Giáo dục Quảng Tây) Tập
sách ảnh Hồ Chí Minh với Trung Quốc-NXB Bách khoa toàn thư Trung Quốc"
(Lời giới thiệu ngoài bìa sách Thơ
chữ Hán Hồ Chí minh-Chú thích-thư pháp).
Lời Nhà
xuất bản chính trị Quốc gia: "Nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp cùng bảo tàng Hồ
Chí Minh xuất bản cuốn Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-Chú thích-Thư pháp. Cuốn
sách gồm hai phần chính: Phần thơ chữ
Hán-Chú thích gồm thơ chữ Hán trong và ngoài Nhật ký trong tù với 169
bài, trong mỗi bài đều có chú thích, được biên soạn rất công phu,
kỹ lưỡng, giúp bạn đọc hiểu được thời gian, bối cảnh, địa điểm, sự kiện, nhân vật
mà Hồ Chí Minh làm thơ; phần hai Thơ chữ Hán-Thư pháp..."
Cuốn sách bị Lê Xuân Đức đạo văn |
Như vậy,
chỉ cần xem cách đặt tên cuốn sách và lời giới thiệu của NXB Chính trị quốc gia cũng đủ biết phần "chú thích" trong sách "Thơ
chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp" quan trọng và giá trị như
thế nào.
Cũng xin nói trước rằng: Sách của GS Hoàng Tranh xuất bản tháng
5/2005, trong khi sách "Nhật ký trong tù và lời bình"
của Lê Xuân Đức xuất bản năm 2013. Như vậy, chỉ trừ trường hợp GS Hoàng Tranh
có tài tiên tri, mới "đạo" được chú thích trong sách của ông Lê Xuân Đức
xuất bản sau đó 8 năm.
Xưa
nay, một khi đã lọt vào nhà, dù nhà giàu hay nghèo bọn đạo chích vẫn thường
nhanh chóng lấy đi những thứ giá trị nhất của căn nhà ấy. Với "căn
nhà" Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp của GS Hoàng Tranh, (sau
đây gọi tắt GS Hoàng Tranh) ông Lê Xuân Đức cũng đã bê gần như toàn bộ đồ đạc đáng giá nhất của cuốn sách đem về nhà mình. Một số ông để
nguyên xi, dùng đúng chức năng vốn có của nó. Phần còn lại, ông sửa chữa, thay
hình đổi dạng hoặc có “sáng kiến” dùng vào việc khác.
Lấy chú thích của người khác làm chú thích
của mình:
1.Bài Điền đông:
-GS Hoàng Tranh:
Điền Đông là một huyện thuộc lưu vực sông Hữu Giang của tỉnh Quảng Tây, trực
thuộc thành phố Bách Sắc, cách huyện lỵ Thiên Bảo (nay là Đức Bảo) hơn 80 km,
cách thành phố Nam Ninh hơn 90 km, trước đây muốn đi từ Thiên Bảo đến Nam Ninh nhất thiết phải qua Điền
Đông.
-Chuyên gia thơ Bác Lê Xuân Đức
(sau đây gọi tắt CG Lê Xuân Đức) : Điền Đông là một huyện thuộc lưu vực sông Hữu
Giang, của tỉnh Quảng
Tây, trực thuộc thành phố Bách Sắc, cách huyện lỵ Thiên Bảo (nay là Đức Bảo)
hơn 80 km, cách thành phố Nam Ninh hơn 90 km. Trước đây,
muốn đi từ Thiên Bảo đến Nam Ninh không thể không qua Điền Đông.
*Như
vậy, CG Lê Xuân Đức chỉ thay "nhất
thiết phải" bằng "không thể
không", bỏ chữ "của" đi và chấm phẩy lại tí chút.
2.Bài Nhà lao Quả Đức:
-GS Hoàng Tranh:
Quả Đức là tên một huyện thời kỳ Quốc dân Đảng, đặt ở thị trấn Quả
Hóa phía tây bắc huyện lỵ Bình Quả, Quảng Tây ngày nay. Năm 1951, hợp nhất hai huyện Bình Trị và Quả Đức
thành huyện Bình Quả, huyện lỵ đặt ở thị trấn Mã Đầu, nay cũng chính là huyện
lỵ Bình Quả, cách Điền Đông 60 km và cách Nam Ninh 130 km.
-CG Lê Xuân Đức:
Năm 1951, Quả Đức hợp nhất với huyện Bình Trị lấy
tên là huyện Bình Quả, huyện lỵ đặt ở thị trấn Mã Đầu, cách Điền Đông 60 km,
cách Nam Ninh 130 km.
*Ở đây, ông Lê Xuân Đức bỏ bớt đi một
câu. Cụm từ "hợp nhất hai huyện Bình Trị và Quả Đức" được diễn đạt
thành "Quả Đức hợp nhất với huyện
Bình Trị".
3.Bài Sở trưởng Long An họ Lưu:
-GS Hoàng Tranh:
Long An là một huyện ở lưu vực sông Hữu Giang, tỉnh Quảng Tây, nay trực thuộc
thành phố Nam Ninh, cách huyện lỵ Bình Quả hơn 30 km, cách Nam Ninh khoảng 100
km.
-CG Lê Xuân Đức:
Nhà lao Long An cũng là nhà tù cấp huyện, cách Quả Đức 37 km, cách Nam Ninh khoảng
100 km, dọc theo sông Hữu Giang chếch về phía Nam. Nay Long An thuộc thành phố
Nam Ninh.
*Chú
thích này cũng được LXĐ “chỉnh trang” lại đôi chỗ như bạn đọc thấy.
4.Bài Đồng Chính:
-GS Hoàng Tranh:
(1) Đồng Chính, tên một huyện cũ của tỉnh
Quảng Tây, một khu hành chính trong thời kỳ Quốc Dân Đảng, nay ở
thị trấn Trung Đông phía tây bắc huyện lỵ Phù Tuy, cách Long An 30 km, cách Nam
Ninh 50 km.
CG Lê Xuân Đức:
(1) Đồng Chính là một huyện, một
khu hành chính trong thời kỳ Quốc Dân Đảng cai
quản, nay là thị trấn Trung Đông phía tây bắc huyện lỵ Phù Tuy, cách
Long An 30 km, cách Nam Ninh 50 km.
Đây
cũng là chú thích LXĐ thêm bớt đi chút ít để thành ‘đồ nhà” mình.
-GS Hoàng Tranh:
(2)
Bình Mã, tức thị trấn Bình Mã, là huyện lỵ của Điền Đông, tỉnh Quảng Tây. Hồ
Chí Minh đã từng bị giam ở nhà lao huyện Điền Đông.
-CG
Lê Xuân Đức:
(2)
Bình Mã là thị trấn, huyện lỵ của Điền Đông. Bác đã từng bị giải đến nhà giam ở
đây, rồi Quả Đức, Long An, bây giờ là Đồng Chính.
Như
thế, ở bài "Đồng Chính" có hai chú thích của GS Hoàng Tranh, Lê Xuân
Đức đã "chôm" cả hai. Ngoài ra, bài "Đồng Chính" còn một
chú thích đánh dấu sao của người dịch Nguyễn Huy Hoan: "Hai chữ 'chính đồng" có nghĩa là giống nhau” được CG Lê
Xuân Đức "lấy" và đưa nguyên xi vào phần "lời bình" của bài
này (phần sau ở mục lấy chú thích làm lời bình chúng tôi sẽ nói rõ hơn).
5.Bài Ngục Thiên
Giang:
-GS Hoàng Tranh: Thiên Giang là tên một
huyện thời Quốc dân Đảng,
ngày nay trở thành thị trấn, trực thuộc khu Hưng Tân, thành phố Lai Tân, tỉnh
Quảng Tây, cách Tân Dương 49km về phía Bắc.
-CG Lê Xuân Đức: Thiên Giang là tên một
huyện thời Trung Hoa dân quốc,
nay là thị trấn, trực thuộc khu Hưng Tân, thành phố Lai Tân, tỉnh Quảng Tây,
cách Tân Dương 49km về phía Bắc cách Lai Tân 42 km.
Ở đây
ta thấy có một cái lạ. Dường như GS Hoàng Tranh đi điền dã ở Quảng Tây, Lê Xuân
Đức cũng sang tận Quảng Tây để "đo đường". Thậm chí Lê Xuân Đức đo kỹ,
làm "nghiêm túc" hơn. Đó là chi tiết "cách Lai Tân 42 km" mà GS Hoàng Tranh không có. Nhưng
xin thưa, đó là số liệu ông Lê Xuân Đức "vặt" trong chú thích bài "Đáp xe lửa đi Lai Tân" của
GS Hoàng Tranh. Ở đó GS cho biết, “Lai
Tân cách Thiên Giang 40 km”. Còn ở đây CG Lê Xuân Đức nói Thiên Giang cách Lai Tân 42 km!
6.Bài Đến Liễu
Châu:
-GS Hoàng Tranh: “Liễu Châu là tỉnh Quảng
Tây chếch về phía đông bắc, có sông Liễu Giang là một nhánh của sông Tây Giang
chảy qua, Liễu Châu ngày nay là một thành phố cấp địa khu”.
-CG Lê Xuân Đức: “Liễu Châu nằm giữa tỉnh
Quảng Tây chếch về phía Đông Bắc, có sông Liễu Giang là một nhánh của sông
Tây Giang chảy qua, trên đường từ Nam Ninh đi Quế Lâm. Liễu Châu
ngày nay là một thành phố cấp địa khu”.
7.Bài Đáp xe lửa đi Lai
Tân:
-GS Hoàng Tranh: “Lai Tân là một huyện
cũ, ngày nay đã trở thành khu (quận) Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân ở cấp
địa khu (trên cấp huyện theo cấp quản lý của Trung Quốc), cách Tân Dương 90 km,
cách Thiên Giang 40 km, cách Liễu Châu 80 km”.
-CG Lê Xuân Đức: “Lai Tân là huyện thời
Trung Hoa dân quốc, nay trở thành khu (quận) Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai
Tân ở cấp địa khu trên cấp huyện theo cấp quản lý của Trung Quốc hiện nay. Những
năm 40 của thế kỷ XX gần huyện lỵ Lai Tân có cơ sở khai thác than, có đường xe
lửa chuyên chở than của Công ty Hợp Sơn”.
Sao
Lê Xuân Đức lại biết rõ hơn GS Hoàng Tranh thế này nhỉ? (phần gạch chân) Hình
như đoạn này CG Lê Xuân Đức đi Quảng Tây điền dã thật thì phải? Nhưng không !
Nguyên ở bài "Đáp xe lửa đi Lai
Tân" GS Hoàng Tranh có hai chú thích. Chú thích (1) đã được CG Lê Xuân
Đức sử dụng (phần không gạch chân). Còn chú thích (2) GS viết: "Ở gần huyện Lai Tân là nơi sản xuất
than, có Cục khoáng sản Hợp Sơn. Những
năm 40 của thế kỷ XX đã có xe lửa chuyên chở than. Năm ấy, Hồ Chí Minh rời
Thiên Giang, sau một chặng đường đi bộ đã lên xe lửa chở than của Công ty Hợp Sơn để đến huyện lỵ Lai
Tân". Thế là CG Lê Xuân Đức đã "biên tập" lại hai chú thích
của GS Hoàng Tranh thành một thích của mình.
Ở
trên, chúng tôi có nói, phần "chú
thích" trong "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư
pháp" quan trọng và giá trị bởi đây là lần đầu tiên, các địa danh,
địa điểm Bác Hồ từng bị giam cầm và ghi lại trong "Nhật ký trong tù" được chú thích một cách chi tiết, cụ
thể như vậy. Ở đất nước Trung Hoa rộng lớn, mỗi huyện của họ tương đương một tỉnh
ở mình, thời gian xảy ra câu chuyện đã hơn nửa thế kỷ. Địa danh lúc tách, lúc
nhập; đường sá, sự vật, con người đã thay đổi quá nhiều. Đặc biệt là sự phát
triển nóng của kinh tế Trung Quốc khiến cho chính những người tù từng bị giam
giữ, giải đi giải lại ở vùng Quảng Tây nếu trở lại cũng khó có thể nhận ra. Việc
xác định lại như GS Hoàng Tranh là việc không hề đơn giản. Chú thích của GS
Hoàng Tranh không chỉ là công sức, trí tuệ mà còn là tiền bạc. Mặt khác, công
trình này còn có vai trò đóng góp quan trọng, của NXB Chính trị quốc gia, của dịch
giả Nguyễn Huy Hoan. Bởi vậy, chẳng có lý do gì, Chuyên gia Lê Xuân Đức ngồi mát
ở khu Bán đảo Linh Đàm-Hà Nội lại tự tiện "thó" về dùng mà không một
lời chú dẫn. Giả sử những thông tin trong chú thích của "Nhật ký trong tù và lời
bình" được lấy ra từ một cuốn sách địa dư chí của Quảng Tây, (tài
liệu không liên quan gì đến chủ đề thơ Bác) thì
Lê Xuân Đức vẫn phải chú thích nguồn gốc tài liệu, thông tin ấy. Đó là
cách làm của người đường hoàng, tôn trọng bản quyền, luật pháp. Huống chi, ở
đây, GS Hoàng Tranh viết về Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, Lê Xuân Đức cũng viết
về "Nhật ký trong tù", sao
có thể “đạo” trắng trợn đến vậy?
Ngoài đạo "chú thích" làm
"chú thích", Lê Xuân Đức còn đạo "chú
thích" của GS Hoàng Tranh làm "lời
bình" ("thẩm bình") Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh.
Sau đây là một số trường hợp:
1.Bài Điền Đông:
Ở phần trên, ta đã biết Lê Xuân Đức
đạo “chú thích” của GS Hoàng Tranh trong bài này làm “chú thích” của mình. Phần
còn lại, ông đưa vào lời bình:
Câu Tân như quế dã, mễ như châu (Củi đắt như quế, gạo như châu):
-
GS Hoàng Tranh chú
thích: “Ý câu thơ trên muốn nói gạo và củi đều đắt đỏ. Trong sách Chiến quốc sách, sở sách tam có câu:
"Lương thực ở nước Sở quý như ngọc, củi quý như quế"
-CG
Lê Xuân Đức "bình": "Câu kết bài thơ
có thể Bác mượn ý từ câu "Sở quốc chi thực quý ư ngọc, tân quý ư quế"
(Ở nước Sở lương thực đắt đỏ như ngọc, củi đắt như quế) trong sách Chiến quốc sách, Sở sách tam.."`
2.Bài Thịt chó ở Bào Hương:
-GS Hoàng Tranh chú thích: “Bào Hương là địa danh, trước đây gọi là Bào Kiều
Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu) trực thuộc thị trấn Lục
Oát, huyện Vũ Minh, cách huyện lỵ Vũ Minh 15km về phía đông bắc. Nhân dân làng
này rất thích ăn thịt chó, nhưng theo phong tục, tập quán cũ thường không được giết
chó trong nhà, mà phải ăn thịt chó ở các hàng thịt chó bên ngoài, vì vậy, các
quán thịt chó ở vùng này rất nhiều.
-CG Lê Xuân Đức
"bình": Bào Hương thuộc huyện
Vũ Minh, cách huyện lỵ Vũ Minh 15km về phía Đông Bắc, trực thuộc thị trấn Lục
Oát. Huyện Vũ Minh trước đây gọi
là Bào Kiều Hương ngày nay, gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu). Nhân
dân làng này rất thích ăn thịt chó, nhưng theo phong tục, tập quán cũ thường
không được giết chó trong nhà, mà phải ăn thịt chó ở các hàng thịt chó bên
ngoài, vì vậy, các quán thịt chó ở vùng này rất nhiều, quán nối quán”.
Giống
như kẻ ăn cắp được cái nồi đồng, Lê Xuân Đức cố tình "đập" cho méo
mó, biến dạng một chút để phòng khi “xào
nấu” không ai phát hiện ra. Thế nhưng khổ nỗi, ông đập mạnh tay quá, làm hỏng luôn
cả cái nồi: GS Hoàng Tranh viết: "Bào
Kiều Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu) trực thuộc thị trấn Lục
Oát, huyện Vũ Minh...", ( chú ý: sau cụm
từ "huyện thị trấn Lục Oát" là dấu phẩy, nghĩa là làng Bào Kiều thuộc
thị trấn Lục Oát, và thị trấn Lục Oát lại thuộc huyện Vũ Minh). Thế nhưng,
trong lúc dấm dúi, Chuyên gia “xào xáo” Lê Xuân Đức đã nhầm lẫn tai hại: Ông cắt
dán và đặt dấu chấm (.) thay cho dấu (,) ngăn cách giữa hai cụm từ "thị trấn
Lục Oát, huyện Vũ Minh", thành "Huyện Vũ Minh trước đây gọi là Bào Kiều
Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều" (!) Thế là CG Lê Xuân Đức đã viết lại
lịch sử làng Bào Hương, biến làng Bào Kiều thành huyện Vũ Minh trước đây (!)
Như thế, theo tay bút “đạo văn” Lê Xuân Đức, Bào Hương vốn là một huyện chứ
không phải là một làng như trong "Nhật
ký trong tù" và GS Hoàng Tranh đã viết.
Đối với
phần sau, chú thích của GS Hoàng Tranh nói lý do ở Bào Hương lắm quán thịt chó,
Lê Xuân Đức để nguyên từng dấu chấm, dấu phẩy, và thêm vào 4 từ "quán nối
nối quán" để thành "lời bình" của ông! (Cũng xin lưu ý thêm, phần
"lời bình" bài "Thịt chó ở
Bào Hương" của Lê Xuân Đức chỉ vẻn vẹn có 20 dòng, trong đó, riêng phần
"chú thích" của GS Hoàng Tranh mà ông "chôm" về làm "lời
bình" đã chiếm mất 8 dòng).
Chú thích của GS Hoàng Tranh bài "Thị chó ở Bào Hương"
"Lời bình" của Lê Xuân Đức
3.Bài Tiền đèn:
-GS Hoàng Tranh chú thích: "Quế tệ là loại giấy bạc do chính quyền địa phương Quảng
Tây phát hành"
-CG
Lê Xuân Đức "bình": "Quế tệ là loại
giấy bạc do chính quyền địa phương Quảng Tây phát hành, lưu thông trong tỉnh".
Như vậy, ông Đức chỉ thêm có 4 từ được
chúng tôi gạch chân.
4. Bài Đến Quế Lâm:
-GS
Hoàng Tranh chú thích: "Trước khi Hồ Chí Minh bị giam, Người từng sống và làm việc
một thời gian tại trụ sở của Văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, nên người rất quen
thuộc với thành phố nối tiếng về cây quế
và hoa quế này. Nhưng ở đây, Người viết: "Quế lâm vô quế diệc vô lâm, Chỉ
kiến sơn cao dữ thủy thâm" để nói
lên cảnh tối tăm của nhà tù và tâm trạng buồn chán của mình".
-CG
Lê Xuân Đức "bình":
"Đây không phải là lần đầu Bác đến
Quế Lâm...khi đang hoạt động ở Trung Quốc, Bác thường đi về Quế Lâm làm việc tại
trụ sở Bát lộ quân và có một vài lần đến Quế Lâm (...) Quế Lâm chẳng có gì xa lạ
với Bác, một vùng đất nổi tiếng về cây quế
và hoa quế, nhưng lần này đến Quế Lâm mang
thân phận của người tù, chẳng thấy rừng, thấy quế đâu".
5. Bài Đến cục chính trị chiến khu 4:
-GS
Hoàng Tranh chú thích: "Theo những ghi chép của Hồ Chí Minh trong cuốn
"Nhật
ký trong tù", thì 13 huyện đó đi theo trình tự như sau: Thiên Bảo
(ngày nay là Đức Bảo), Tĩnh Tây, Điền Đông, Quả Đức (nay là Bình Quả) Long An,
Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Thiên Giang (là thị
trấn Thiên Giang) Lai Tân, Liễu Châu, Quế Lâm".
-CG
Lê Xuân Đức "bình": "Theo thứ tự ghi chép trong cuốn Ngục
trung nhật ký, thì 13 huyện mà Bác bị giải đến là: Thiên Bảo (nay là Đức
Bảo), Tĩnh Tây, Điền Đông, Quả Đức (nay là Bình Quả) Long An, Đồng Chính (nay
là Phù Tuy), Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Thiên Giang (là thị trấn Thiên
Giang) Lai Tân, Liễu Châu, Quế Lâm".
*Cái
khác đáng kể ở đây, GS Hoàng Tranh nói “Nhật
ký trong tù” còn Lê Xuân Đức viết “Ngục
Trung nhật ký”. Phần còn lại là bản copy.
6.Bài Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng:
-GS
Hoàng Tranh chú thích: "Tưởng
công huấn từ, chỉ những lời nói của Tưởng Giới Thạch. Những lời phát biểu của
Tưởng Giới Thạch quyết kháng chiến đến cùng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật,
Hồ Chí Minh đã được đọc trên
các báo xuất bản ở Đệ tứ chiến khu bấy giờ như tờ Trần Trung Nhật báo.
-CG
Lê Xuân Đức "bình": Tưởng
công huấn từ, trong bài thơ này là những lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch.
Những lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch quyết kháng chiến đến cùng trong thời
kỳ chiến tranh chống Nhật, Bác đã đọc
được những lời huấn từ trên các tờ báo xuất bản ở Đệ tứ chiến khu, trong đó
có tờ Trần Trung Nhật báo.
*Cái khác đáng kể ở đây là Lê Xuân Đức
chữa hai chữ “được đọc” thành “đọc được”, thay “Hồ Chí Minh” bằng “Bác”.
7.Bài Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó
tư lệnh:
-GS
Hoàng Tranh chú thích: Lương Hoa Thịnh
nguyên là Chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu. Tháng 5 năm 1943, ông được thăng chức Phó tư lệnh Đệ tứ chiến khu. Ông
đã từng tham gia chiến đấu chống Nhật ở các chiến trường Chiết Giang, Hồ Nam,
sau đó dẫn quân từ Vân Nam vào chiến khu Miến Điện (Mianma). Khi Lương Hoa Thịnh
làm chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu, ông đã thẩm tra Hồ Chí Minh ở trại
giam, vì thế Hồ Chí Minh đã ít nhiều
hiểu về binh nghiệp của ông.
-CG
Lê Xuân Đức "bình": Trung tướng Lương Hoa Thịnh là Chủ nhiệm Cục
chính trị Đệ tứ chiến khu ở Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây đã có lần trực tiếp
xét hỏi Bác, và có những ưu đãi với Bác khi bị giam giữ ở nhà giam của Cục
chính trị. Tiếp xúc với vị tướng quân này Bác hiểu ít nhiều cuộc đời binh nghiệp của ông, Bác khâm
phục tài năng và đức độ của ông. Tháng
5-1943, ông được thăng thức Phó tư lệnh..."
Ở đây, Lê Xuân Đức cũng chỉ thay “Hồ
Chí Minh” bằng “Bác” là đáng kể, cộng thay đổi chút diễn đạt là thành của mình.
8.Bài Tức cảnh:
-GS
Hoàng Tranh chú thích: “Trương Phi và Quan Vũ là hai danh tướng nhà Thục
Hán thời Tam quốc. Trương Phi nổi tiếng về tính cương trực, Quan vũ nổi tiếng về
các đức tính tín nghĩa, trung dũng. Hai người cùng là anh em kết nghĩa của Lưu
Bị”.
-CG
Lê Xuân Đức "bình": “Trương Phi và Quan Vũ là hai danh tướng nhà
Thục Hán thời Tam quốc. Trương Phi (còn có tên là Trương Dực Đức) nổi tiếng
về tính cương trực và dũng cảm, Quan vũ (Quan Văn Trường, Quan Công) nổi
tiếng về các đức tính tín, nghĩa, trung dũng. Hai người cùng Lưu Bị.kết nghĩa
anh em "Đào viên kết nghĩa".
*Đoạn này Lê Xuân Đức chỉ thêm chút ít
phần mở ngoặc.
-GS
Hoàng Tranh chú thích: Hai câu thơ: "Cành
lá khéo in hình Dực Đức, Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công", chính là
lúc Hồ Chí Minh nhìn cảnh vật rồi liên tưởng tới hai nhân vật Trương Phi và
Quan Công trong lịch sử Trung Quốc, được nhân dân rất sùng kính để nói lên tình
cảm của mình. Từ trong tù nhìn ra xa, Hồ Chí Minh thấy những ngọn cây lá tua tủa
giống như khuôn mặt Trương Phi với bộ râu quai nón, và cũng nghĩ đến bộ râu của
mình trong tù không được cạo giống như Trương Phi vậy. Lại nhìn mặt trời đỏ, Người nghĩ đến tấm lòng son sắt , trung nghĩa của
Quan Vũ, liên tưởng đến mình cũng đang ấp ủ trong lòng trung son sắt với Tổ quốc
và nhân dân.
-CG
Lê Xuân Đức "bình": "Ngọc
cây khéo vẽ hình Trương Phi, Vầng hồng sáng mãi lòng Quan Vũ" Trong lịch
sử và trong đời sống tinh thần Trung Quốc, hai tướng Trương Phi và Quan Công được
nhân dân rất sùng kính, là biểu tượng đẹp đẽ, biểu tượng sống được lưu truyền,
ai ai cũng biết. Điều chắc chắn hình ảnh hai vị để lại ấn tượng sâu đậm trong
tâm khảm Bác, nên từ trong tù nhìn thấy những ngọn cây lá tua tủa, Bác đã tưởng
giống như khuôn mặt cương nghị Trương Phi với bộ râu quai nón oai hùng. Và, khi nhìn mặt trời đỏ rực, Bác liên tưởng
đến tấm lòng son sắt , trung nghĩa của Quan Vũ, liên tưởng đến mình cũng đang ấp
ủ trong lòng trung son sắt với Tổ quốc và nhân dân.
Như vậy, không chỉ đạo ý, đạo lời mà
Lê Xuân Đức còn đạo nguyên xi từng đoạn của GS Hoàng Tranh. Chỉ dừng ở đây
thôi, chúng ta cũng thấy rằng, tính chất "đạo
văn để bình văn" của Lê Xuân Đức rõ như thế nào.
Sách
có tên "Nhật ký trong tù và lời
bình", vậy mà ông Lê Xuân Đức lấy “chú thích” của người khác để làm "lời bình" của mình như vậy đó
! Chẳng nhẽ với 40 năm "thẩm bình" thơ Bác, và là người đầu tiên
"thẩm bình" hết toàn bộ 133 bài thơ trong "Nhật ký trong tù"
và "sẽ công bố thời gian tới",
ông Lê Xuân Đức vẫn chưa hiểu thế nào là "chú
thích" thế nào là "lời
bình" (mà ông còn gọi bằng cái từ quái đản do ông nghĩ ra là "thẩm
bình" !). Ngoài tính chất táo bạo và manh động của vụ việc, không hiểu, ý ông Lê Xuân Đức muốn thiên hạ "thẩm" 'cái
hay cái đẹp", cái lưu manh trong "lời bình" của ông, hay ông đạo văn người khác về "thẩm định"
và "bình xét" thơ Bác Hồ?
Sách ông đề "Nhật ký trong tù và lời
bình", nhưng phần "Nhật ký trong tù" đã bị
ông xuyên tạc nguyên tác, "chữ tác, đánh chữ tộ"; phần "lời
bình" ông lại "chôm" chú thích của người khác để “bình”. Như thế,
chẳng phải độc giả đã mất tiền oan để mua về "nguyên tác" thơ Hồ Chí
Minh bị ông xuyên tạc, và mua lại “chú
thích” đã có trong sách Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp
của GS Hoàng Tranh hay sao?
Vậy
ông Lê Xuân Đức có biết ngoài tội "đạo văn", ông có mắc tội gì nữa
không ? Ông “kiến thức uyên thâm, tính
tình trầm tĩnh” (chữ của nhà thơ Vương Trọng nhận xét về Lê Xuân Đức) chắc hẳn
phải biết “Quải dương đầu, mại cẩu nhục” nghĩa là gì rồi chứ?
Ông Lê Xuân Đức đã từng tham gia và được nhận
giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam về cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT, báo chí về chủ
đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh”. Vậy ở vụ đạo văn này ông học ai ? Ông học ai để thay đổi một bản chất hoàn toàn mang ý nghĩa ngược lại với cái tên của mình, thưa ông Lê Xuân Đức?
Lê Xuân Đức cũng từng làm Vụ trưởng vụ văn hóa giáo dục của Quốc hội, Đại biểu quốc hội khóa VIII. Chắc hẳn Lê Xuân Đức biết, việc phá hỏng nguyên tác thơ Hồ Chí Minh và đạo văn để bình văn của mình mắc vào tội gì, và đã xúc phạm tới những ai. Lẽ nào Lê Xuân Đức kỷ niệm 40 năm nghiên cứu thơ Bác và 70 năm “Nhật ký trong tù” (2013) bằng một “tác phẩm” như “Nhật ký trong tù và lời bình” chăng?
Lê Xuân Đức cũng từng làm Vụ trưởng vụ văn hóa giáo dục của Quốc hội, Đại biểu quốc hội khóa VIII. Chắc hẳn Lê Xuân Đức biết, việc phá hỏng nguyên tác thơ Hồ Chí Minh và đạo văn để bình văn của mình mắc vào tội gì, và đã xúc phạm tới những ai. Lẽ nào Lê Xuân Đức kỷ niệm 40 năm nghiên cứu thơ Bác và 70 năm “Nhật ký trong tù” (2013) bằng một “tác phẩm” như “Nhật ký trong tù và lời bình” chăng?
Tên sách
là “Nhật ký trong tù và lời bình” nhưng
phần nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch thơ (ông giới thiệu nhiều bản dịch của người khác) chiếm
phần lớn. Phần “lời bình” của ông rất ngắn. Chính ông đã mỉa mai gọi đó là “lời
bình”, vì ngoài “đạo” nội dung chú thích của GS Hoàng Tranh, ông tán nhăng, tán cuội, kiến
thức chắp vá, nông cạn, đầy rẫy sai lầm.
Chúng tôi chỉ muốn gói gọn vấn đề trong một bài viết. Tuy nhiên,
do phần hai đã quá dài, nên hiện tượng “không biết chữ dạy người biết chữ” của Lê
Xuân Đức đành hẹn gặp lại bạn đọc ở phần III của “Nhật ký trong tù và lời bình” hay
trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức”.
HTC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét