Hoàng Tuấn Công
4 thg 2, 2014
30 thg 1, 2014
Những sai lầm mang tính hệ thống trong "TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ TỤC NGỮ VIỆT NAM" của GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Kỳ cuối
“Láo nháo như cháo với cơm”
Những chuyện khó tin nhưng có thật
Sách có tên “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam”, phần "Lời nói đầu" cũng được GS Nguyễn Lân xác định tương đối chính xác tiêu chí thế nào là thành ngữ, tục ngữ. Thế nhưng, thực tế lại hoàn toàn khác. Nhiều câu là ca dao, câu đối, các thuật ngữ ngoại giao, thể thao, quân sự, các cụm từ, ngữ, láy từ đã được GS sư đưa vào làm “thành ngữ, tục ngữ” Việt Nam:
26 thg 1, 2014
NHỚ BẾP TRANH NGÀY TẾT
Hoàng Tuấn Công
So với Tết xưa, Tết nay đã khác đi nhiều. Bao nhiêu phong vị Tết (dẫu toàn thứ không ăn được, thậm chí cũng chẳng nhìn thấy) đã một đi không trở lại. Những cái không ăn được, chỉ cảm thấy được ấy ta vẫn quen gọi là không khí tết. Ví như “không khí” từ cái bếp tranh xưa nồng nàn khói lam và ấm áp sắc màu, mùi vị Tết…
25 thg 1, 2014
Những sai lầm mang tính hệ thống trong “TỪ ĐIỂN TỪ THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM” của GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Kỳ 4
Giảng sai về từ vựng, cách hiểu, cách dùng từ Hán-Việt và thành ngữ, tục ngữ Hán-Việt
Các sách “Từ điển từ và ngữ Hán Việt”, “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” và “Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân mang đậm dấu ấn cùng tác giả. Đó là: dịch sai, hiểu sai nhiều từ Hán - Việt và thành ngữ, tục ngữ Hán-Việt.
24 thg 1, 2014
THÚ CHƠI ĐÀO NGÀY TẾT
Hoàng Tuấn Công
Cành đào xuân Canh Dần. Từ bấy tới giờ mình
vẫn chưa mua được cành nào đẹp như vậy
Ảnh:Tuấn Công
Xuân không phải mùa riêng của hoa đào khoe sắc. Nhưng không biết tự bao giờ, nàng Xuân đã chọn loài hoa e ấp nụ cười, ửng hồng cánh mỏng và mảnh mai dáng hình này để mỗi năm một lần hoá thân về với nhân gian.
23 thg 1, 2014
MỰC TÀU GIẤY ĐỎ
HƯƠNG SẮC MÙA XUÂN
Hoàng Tuấn Công
Khai bút xuân 2008 tại Thư phòng
Ai từng được hưởng những cái Tết ngày xưa mới thấy hết vẻ đẹp của mực tàu giấy đỏ, của tranh dân gian Đông Hồ tươi thắm sắc xuân, ấm áp lòng người.
20 thg 1, 2014
Sai lầm mang tính hệ thống trong “TỪ ĐIỂN TỪ THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM" của GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
DĨ HƯ TRUYỀN HƯ KỲ 3
Bỏ gốc lấy ngọn, giải thích sai, nông cạn, làm hẹp ý nghĩa, cách dùng thành ngữ, tục ngữ.
Đặc trưng của thành ngữ, tục ngữ là nghĩa đen hạn hẹp, cụ thể, nhưng nghĩa bóng lại rất rộng. Nhiệm vụ của người làm từ điển sau khi giải thích nghĩa đen, phải đưa ra được cách hiểu nghĩa bóng khái quát. Từ đó, người sử dụng từ điển có thể vận dụng đúng, linh hoạt vào nhiều trường hợp khác. Nhưng do cách hiểu nông cạn, phiến diện, bỏ gốc lấy ngọn, GS Nguyễn Lân đã biến nhiều câu thành ngữ, tục ngữ có tính khái quát cao thành lời nói nôm na, hời hợt:
15 thg 1, 2014
Sai lầm mang tính hệ thống trong “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VIỆT NAM” của GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Dĩ hư truyền hư kỳ 2
"Bò lành đánh bò què", giải thích sai về các sự vật, hiện tượng, kinh nghiệm dân gian, “Tiền hậu bất nhất”.
Thành ngữ, tục ngữ thường có nhiều dị bản, gần nghĩa hoặc đồng nghĩa. Người làm từ điển có thể thu nhận tất cả để độc giả tham khảo và chọn ra dị bản hay nhất, được sử dụng rộng rãi nhất để giải thích. Thế nhưng, không ít trường hợp GS Nguyễn Lân tự chữa từ trong câu thành ngữ, tục ngữ hoặc phỏng đoán theo ý chủ quan của mình, bác đi dị bản hay nhất, khiến thành ngữ bỗng dưng mất đi cái hay, cái đẹp, sự tinh tế trong ngôn từ của dân gian:
10 thg 1, 2014
Những sai lầm mang tính hệ thống trong “TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM” của GS Nguyễn Lân
Hoàng Tuấn Công
Từ điển là sách công cụ tra cứu, kho cứ liệu chuẩn mực, tin cậy để người dùng vận dụng chính xác từ ngữ, khái niệm, vấn đề cần tìm. Bởi thế, yêu cầu tối quan trọng của từ điển là phải chính xác. Sách “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam”của GS Nguyễn Lân xuất bản lần đầu năm 1989, khi ông còn trường mạnh. Tuy nhiên cũng như hai cuốn “Từ điển từ và ngữ Hán Việt” (XB1989) và “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” xuất bản sau đó hơn 10 năm, “Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân có quá nhiều sai sót.
15 thg 12, 2013
NHỮNG ĐIỀU CẦN PHÊ PHÁN Ở HAI QUYỂN SÁCH VỀ PHONG THỦY VIỆT NAM
HOÀNG TUẤN PHỔ
Thị trường sách nước ta những năm gần đây bày bán ê hề những ấn phẩm một thời bị xếp vào loại duy tâm, thần bí, mê tín, dị đoan: tử vi, tướng số, bói toán, xem ngày tốt xấu, phong thủy...Cũng có một ít “hàng thật”, đa số “hàng rởm”. Ví dụ sách Tìm hiểu phong thổ học qua quan niệm triết Đông của Mộng Bình Sơn (2) hay sách Nghiên cứu phong thủy và phong thủy Việt Nam dưới góc độ khoa học của Ngô Nguyên Phi (1)...
11 thg 12, 2013
NĂM ĐẶT TÊN ĐỊA DANH HÀNH CHÍNH THANH HÓA mốc 1029 hay 1082 ?
HOÀNG TUẤN CÔNG
Đền Đồng Cổ ở Đan Nê-An Định-Thanh Hóa
Nước Việt Nam ta, tỉnh Thanh Hoá là một trong số rất ít tỉnh nhà nước phong kiế n đặt cho nhiều tên nhất: Cửu Chân, Ái Châu, Thanh Hoá, Thanh Hoa, Thanh Hoá…
3 thg 12, 2013
QUỐC MẪU TRỊNH THỊ NGỌC LỮ VÀ QUỐC VƯƠNG TƯ TỀ-MỘT NGHI ÁNTRONG LỊCH SỬ THỜI LÊ SƠ
HOÀNG TUẤN PHỔ
Lê Thái tổ thuở sinh thời, theo sử sách có ba bà vợ: Trịnh Thị Ngọc Lữ được phong làm Thần phi; Phạm Thị Nghiêu được phong làm Huệ phi; Phạm Thị Ngọc Trần chức phong Hiền phi. Theo quy định thời bấy giờ, vợ vua ngoài chính cung hoàng hậu có 3 bậc phi, 9 bậc tần.
Nên hiểu “TAM THẬP LỤC KẾ” thế nào cho đúng?
HOÀNG TUẤN CÔNG
Ai yêu thích Truyện Kiều hẳn đều nhớ câu: “Ba mươi sáu chước chước gì là hơn” và không ít người muốn biết đầy đủ ba muơi sáu chước ấy là những chước gì?
5 thg 11, 2013
"TỪ ĐIỂN TỪ VÀ NGỮ VIỆT NAM" CỦA GIÁO SƯ NGUYỄN LÂN
MỤC CHỮ CÁI NÀO CŨNG CÓ SAI SÓT
Hoàng Tuấn Công
C
Thực ra câu này ý nói sự việc nào đó đã rồi, đã xong xuôi, không có cách nào thay đổi được nữa.
4 thg 11, 2013
LÀNG CỔ QUẢNG THI
Hoàng Tuấn Phổ
Một khúc Lương Giang
Ảnh: Internet
Sông Chu tên xưa là Lương Giang do bốn ngọn nguồn đổ vào. Một dòng sông đẹp, nước trong xanh, uốn mình lượn giữa đôi bờ bạt ngàn dâu, mía, ngô, khoai.
24 thg 10, 2013
21 thg 10, 2013
ĐÁNH CHUỘT
HOÀNG TUẤN PHỔ
Hồi tôi còn nhỏ, tạng
người yếu, ăn cơm hay bị nghẹn, nấc. Mỗi lần bị nghẹn, nấc, người lớn lại chỉ
tay lên nóc nhà, bảo: “Tề tề (kìa kìa) có con chuột đang chạy!”, tôi tưởng thật
ngửa cổ nhìn lên nóc nhà, buột miệng hỏi: “Mô mô (đâu đâu)?” thế là khỏi nghẹn,
hết nấc. Đúng là trên nóc nhà (không riêng nhà tôi) có giống chuột nhỏ tên
thường gọi chuột nhà, chuyên cư trú trong mái lá. Chúng sống ở đó rất an toàn,
mèo thấy cũng chẳng làm gì, tha hồ xây tổ ấm, sinh con đẻ cháu. Lợi dụng đêm
tối hoặc nhân lúc ban ngày vắng
VĂN HÓA LÀNG-TÂM HỒN VIỆT
Ảnh minh họa: Internet
Đất nước ta lập làng rất sớm, từ hàng nghìn năm trước. Di tích khảo cổ học núi Sỏi gần núi Nưa (Nông Cống – Triệu Sơn), cho biết khoảng thế kỷ II sau Công nguyên, một làng cổ cư trú trên toàn bộ núi Sỏi, rộng đến 1 vạn m2.
THỔ ÂM THỔ NGỮ THANH HÓA
HOÀNG
TUẤN PHỔ
Thanh
Hóa là một vùng văn hóa, trong đó ngôn ngữ người Việt, thành phần dân tộc chủ
thể rất giàu sắc thái địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa
học đầy đủ và sâu sắc.
Cây trôi ở làng Văn Đoài-Quảng Hòa-Quảng Xương-Thanh Hóa
Ảnh:Tuấn Công
Sách “Địa
chí văn hóa xã hội Thanh Hóa” cũng chỉ dành cho “lời ăn tiếng nói”
người xứ Thanh số trang ít ỏi với nội dung sơ sài. Các sách Địa
chí huyện Hà Trung, Địa chí huyện Thọ Xuân, chú ý đề cập vấn đề “thổ âm - thổ
ngữ”, nêu rõ sắc thái địa phương, tuy nhiên chỉ giới hạn phạm vi trong huyện.
17 thg 10, 2013
GS NGUYỄN LÂN HIỂU NHƯ THẾ NÀO VỀ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ?
Hoàng Tuấn Công
Trong sách “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” của GS Nguyễn Lân, nhiều từ ngữ, khái niệm liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đã được thu nhận và giải thích.
VỀ CHỮ “HỒNG” TRONG BÀI THƠ “MỘ” CỦA HỒ CHÍ MINH
Hoàng Tuấn Công
Trên tạp chí Ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt
Nam, số 6-2007 có bài “Thiết kế thử nghiệm bài học ngữ văn” đối với bài
thơ “Mộ (Trích ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh, Ngữ văn 12, tập 1)” của
Th.S Vũ Thị Sao Chi (*) Bài viết thể
hiện sự đầu tư công phu khi đưa ra cách giảng dạy bài thơ “Mộ” (Chiều
tối).
Đặc biệt đã có sự so sánh khá kỹ giữa bản phiên âm, dịch
nghĩa và dịch thơ để hướng dẫn giáo viên phân tích, cảm thụ cái hay,
cái đẹp của bải thơ.
Tuy nhiên, khi phân tích hai câu thơ cuối:
Tuy nhiên, khi phân tích hai câu thơ cuối:
Sơn thôn thiếu
nữ ma bao túc,
Bao túc ma
hoàn lô dĩ hồng.
Nam Trân dịch:
Cô em
xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò
than đã rực hồng.
ThS. V.T.S.C chỉ căn cứ vào chữ “hồng” qua bản
dịch thơ của Nam Trân mà không tìm hiểu chữ “hồng” trong
nguyên tác chữ Hán nên dẫn đến sự nhầm lẫn. Cụ thể V.T.S.C luôn bám vào hai từ “rực
hồng” của người dịch để hướng dẫn giáo viên phân tích, cảm thụ bài
thơ.
Khi đọc
nguyên tác chữ Hán của bài thơ “Mộ” chúng ta sẽ thấy rằng, chữ “hồng” (烘) trong
câu cuối bài thơ “Mộ” có bộ hoả(1). Chữ “hồng” có
bộ hoả, tác giả bài thơ dùng với nghĩa, cháy lên, nhóm lửa lên
chứ không phải chữ “hồng”紅 có bộ mịch (糸) là
mầu hồng- sắc mầu của ngọn lửa “rực hồng”. Có nghĩa, chữ “hồng” (烘) trong câu thơ là
một động từ (cháy lên, đốt lên, nhóm lửa lên) chứ không phải
chữ “hồng” (紅) tính từ (chỉ màu sắc lửa hồng).
Đây không phải là sự ngẫu nhiên. Ta có thể so sánh cách dùng một
số chữ “hồng”khác có trong tập thơ Ngục trung nhật ký.
Để chỉ màu hồng của mặt trời, của ánh sáng xua tan bóng đêm
trong bài Tảo giải (Giải đi sớm) tác giả đã dùng chữ “hồng” có
bộ mịch (紅). Chữ "hồng" có bộ mịch (紅) với
nghĩa mầu sắc (của ánh sáng) xua tan bóng đêm-hoàn toàn khác với chữ “hồng” có
bộ hoả (烘) nghĩa là cháy lên, đốt lên trong bài “Mộ”:
“Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không”
Dịch nghĩa:
Màu trắng ở phương đông đã thành màu hồng
Bóng đêm rơi rớt đã bị quét sạch.(2)
Hoặc chữ “hồng” (紅), cũng
chỉ mầu sắc như vậy trong bài “Triêu cảnh” (Cảnh buổi sớm):
Thái dương mỗi tảo tòng sơn thượng
Chiếu đắc toàn sơn xứ xứ hồng
Dịch nghĩa:
Mỗi buổi sớm, mặt trời từ đỉnh núi mọc lên
Núi non, xứ xứ đều rực ánh hồng (3)
Trở lại bài thơ “Mộ”. Do không hiểu đúng nghĩa nguyên tác chữ “hồng” (烘)
lại bám vào chữ “rực hồng” của Nam Trân dịch nên người
thiết kế thử nghiệm bài học ngữ văn cho giáo viên đã sa vào suy diễn, gán
ghép, “tán” ý thơ mà không ít nhà phê bình đã từng lầm tưởng:
“Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “lò than rực hồng”. Đây là tín hiệu đa tầng ý nghĩa”;... “Hình ảnh lò than rực hồng còn là một nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen, nó cân lại bức tranh của núi rừng chiều tối, làm sáng lên và ấm lại khung cảnh hoang lạnh tối tăm. Nghệ thuật thơ Đường gọi những hình ảnh như thế là “thi nhãn” (mắt thơ). Ánh sáng lung linh, sức sống ấm áp, niềm tin yêu cuộc đời đã toả ra từ ngọn lửa-con mắt thơ rực rỡ ấy. Từ sức bật của hình tượng thơ (rực hồng) phả ra một nguồn ánh sáng, một nguồn nhiệt lượng mạnh mẽ để tiếp cho con người hơi ấm...”... “Hình ảnh lò than rực hồng cuối bài thơ chính là một biểu hiện của nhãn quan nghệ thuật ấy.”v.v...
“Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “lò than rực hồng”. Đây là tín hiệu đa tầng ý nghĩa”;... “Hình ảnh lò than rực hồng còn là một nét vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen, nó cân lại bức tranh của núi rừng chiều tối, làm sáng lên và ấm lại khung cảnh hoang lạnh tối tăm. Nghệ thuật thơ Đường gọi những hình ảnh như thế là “thi nhãn” (mắt thơ). Ánh sáng lung linh, sức sống ấm áp, niềm tin yêu cuộc đời đã toả ra từ ngọn lửa-con mắt thơ rực rỡ ấy. Từ sức bật của hình tượng thơ (rực hồng) phả ra một nguồn ánh sáng, một nguồn nhiệt lượng mạnh mẽ để tiếp cho con người hơi ấm...”... “Hình ảnh lò than rực hồng cuối bài thơ chính là một biểu hiện của nhãn quan nghệ thuật ấy.”v.v...
Từ sự nhầm lẫn đó, Vũ Thị Sao Chi đã chê Nam Trân khi dịch câu: “Cô
em xóm núi xay ngô tối”:
“Bản dịch đã thêm vào chữ tối làm mất đi dấu hiệu nghệ thuật độc đáo (trở nên lộ liễu) vì nguyên bản không nói tối mà vẫn gợi được tối, nhờ ánh sáng của lò than rực hồng-nghệ thuật lấy sáng để gợi tối.” và “Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Đây là một tín hiệu nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Trước hết hình tượng thơ gợi bước đi của thời gian. Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn. Nguyên bản câu cuối không có chữ tối mà cả bóng tối bịt bùng của núi rừng đã được mở ra khi “lò than rực hồng” của cô gái xóm núi bừng sáng (khi mặt trời tắt, rừng núi mịt mùng thì tự nhiên ta có thể nhìn rõ nơi có ánh sáng) Lấy ánh sáng gợi tối chính là một thủ pháp độc đáo của ý thơ này.” (HTC nhấn mạnh)
“Bản dịch đã thêm vào chữ tối làm mất đi dấu hiệu nghệ thuật độc đáo (trở nên lộ liễu) vì nguyên bản không nói tối mà vẫn gợi được tối, nhờ ánh sáng của lò than rực hồng-nghệ thuật lấy sáng để gợi tối.” và “Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh lò than rực hồng. Đây là một tín hiệu nghệ thuật đa tầng ý nghĩa. Trước hết hình tượng thơ gợi bước đi của thời gian. Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn. Nguyên bản câu cuối không có chữ tối mà cả bóng tối bịt bùng của núi rừng đã được mở ra khi “lò than rực hồng” của cô gái xóm núi bừng sáng (khi mặt trời tắt, rừng núi mịt mùng thì tự nhiên ta có thể nhìn rõ nơi có ánh sáng) Lấy ánh sáng gợi tối chính là một thủ pháp độc đáo của ý thơ này.” (HTC nhấn mạnh)
Tất cả những bóng đêm Vũ Thị Sao Chi tưởng tượng ra như: “nét
vẽ tương phản trên nền bóng đêm đen”, “hoang lạnh tối tăm”, “bóng tối bịt bùng
của rừng núi đã được mở ra” đều thể hiện sự lạc lối bắt đầu từ chữ “hồng”. Vũ
Thị Sao Chi quên rằng, bài thơ tả cảnh chiều tà, chiều muộn, gần tối chứ
không phải trời đã tối. Tính thời gian (hay giới hạn thời
gian) tác giả bài thơ đã khẳng định ở đầu đề bài thơ là chữ “Mộ” (暮) chứ
không phải chữ “Dạ” (夜).
Nên hiểu rằng, với các dân tộc miền núi cao, bắp ngô là lương
thực chính hàng ngày. Ngô làm cơm, làm bánh được xay dùng từng bữa. Xay ngô
chiều để chuẩn bị cho bữa tối. (Giống như tiếng chày giã gạo vang lên rộn rã
rừng chiều của cư dân vùng thung lũng lúa nước chuẩn bị bữa cơm tối). Do đó,
hai câu:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Dịch nghĩa:
Thiếu nữ xóm núi xay ngô,
Ngô xay xong, lò than đã được nhóm/đốt lên.
Công việc đốt lên, nhóm lò lên ở
đây được hiểu là chuẩn bị cho bữa cơm tối (lô = lò than, dĩ = đã,
được; hồng = đốt lên, nhóm lên ). Bởi vậy khi dịch câu
“Ngô xay xong, lò than đã được đốt (cháy rực) lên” thành “Xay hết lò
than đã rực hồng” ,Nam Trâm đã có ý thêm chữ “tối” vào câu
thơ trước: “Cô em xóm núi xay ngô tối”. Có nghĩa, xay ngô chuẩn bị cho bữa cơm tối, không phải xay ngô khi trời (đã) tối; và hai
từ “rực hồng” Nam Trân dịch ở đây, nghĩa đen là bếp lửa nấu cơm chiều, không
phải ngọn lửa cháy trong bóng tối, “Thời gian vận động từ chiều sang tối hẳn” như
sự suy diễn của V.T.S.C.
Như trên đã nói, chữ “hồng” (烘) trong
bài thơ này có nghĩa là đốt lên, nhóm lửa lên, sưởi ấm, không
phải chữ “hồng” (紅) là ánh lửa sáng mầu
hồng. Vậy, tại sao Hồ Chí Minh lại dùng chữ “hồng” với nghĩa
là nhóm lửa lên, mà không dùng chữ “hồng” với nghĩa đơn thuần
là ánh lửa sáng mầu hồng trong đêm tối? Chúng ta đều biết, trong
khoảng thời gian bị giam cầm, Hồ Chí Minh liên tục bị giải đi hết nhà lao này đến nhà
lao khác:
Liễu Châu, Quế Lâm, lại Liễu Châu
Đá qua đá lại, bóng chuyền nhau.
Vô đề(4))
Bài thơ “Mộ” là một trong những bài Hồ Chí Minh làm khi đang trên đường
bị giải. Đó là khung cảnh buổi chiều, thời khắc mọi vật dường như đều mệt mỏi
sau một ngày dài. Cánh chim mỏi bay về rừng tìm chốn ngủ, chòm mây đơn chiếc
cũng trôi chậm lại. Tất cả dường như đều trở về ngôi nhà của riêng mình để nghỉ
ngơi. Trong khi người tù vẫn “cất bước trên đường thẳm”(5) và
không biết “Giải tới bao giờ, giải tới đâu”(6). Giữa
rừng chiều vắng, đói rét, mỏi mệt, ai chẳng mơ về một mái ấm bình dị, nơi có bếp
lửa ấm áp và bữa cơm tối đang chuẩn bị. Buổi chiều chính là thời khắc dễ
khiến những bước chân tha hương nhớ, nghĩ, mơ về người thân và mái ấm gia đình.
Thơ Hồ Chí Minh, cảnh và tình bao giờ cũng rất cụ thể, giản dị và thắm đượm
tình người cùng hơi thở cuộc sống. Lò than được
đốt lên, nhóm lên sưởi ấm không gian khi một ngày sắp tàn như khẳng định ngọn
lửa trong lòng người tù không bao giờ tắt. Nó tiếp tục được nhen lên, cháy lên
sau một ngày tưởng chừng trí lực đã cùng kiệt. Câu thơ như thắp lên ngọn lửa ý
chí - ngọn lửa sẽ cháy lên để tiếp sức cho một cuộc hành trình gian khổ ngày
mai đang đợi phía trước...
Ngoài ra, có nhiều điểm, ThS V.T.S.C cần cẩn trọng hơn khi thiết
kế bài giảng cho giáo viên. Ví như câu: “Quyện điểu quy lâm tầm túc
thụ” (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ). Có lẽ ThS không đọc kỹ nguyên
tác nên lầm chữ “túc” (宿) với nghĩa tá túc, ngủ
lại trong câu thơ thành “túc” (足) là chân, và
dịch nghĩa cho học sinh là: “Chim mỏi bay về rừng tìm chốn dừng
chân” (Hoàng Tuấn Công nhấn mạnh). Chim bay bằng cánh
nên không thể dùng từ dừng chân. Hơn nữa, chim về rừng tìm chốn
(nơi chỗ) ngủ - (“tầm túc thụ”), không phải“dừng chân” (để nghỉ). Nguyên tác cũng không dùng
chữ “túc” (宿)với nghĩa này.
Một điều nữa. Hai chữ “cô vân” trong câu “Cô
vân mạn mạn độ thiên không” Nam Trân dịch là “chòm mây”.
ThS V.T.S.C cho rằng: “Bỏ sót một tín hiệu nghệ thuật quan trọng về hình ảnh đám mây, đó
là chữ cô (một mình) gợi sự lẻ loi, đơn chiếc, trống vắng, hoang
lạnh”. Sự thực Nam Trân không kém cỏi
tới mức vô tình “bỏ sót tín hiệu nghệ thuật quan trọng” như
VTSC nói. Phải thấy rằng, khi dịch thơ, khó chọn từ nào hay hơn “chòm
mây” để diễn tả hình ảnh “cô vân”. Thực tế đã chứng
minh. Dù chê Nam Trân, nhưng chính VTSC cũng không đưa ra được cách dịch nào
hay hơn để không “bỏ sót tín hiệu nghệ thuật quan trọng” của
hai từ “cô vân” ấy. Ngược lại, khi đưa ra bản dịch
nghĩa của câu thơ này, thậm chí là từ dùng trong bài viết (mặc dù
không bị câu thúc về số lượng từ hay niêm luật), VTSC vẫn phải dùng lại hai chữ “chòm
mây” của Nam Trân để diễn tả hai từ “cô vân” !(Một
chòm mây chầm chậm trôi giữa không trung). Cũng cần nói thêm,
hình ảnh “cô vân”(một đám mây, cụm mây, chòm mây), “mạn
mạn” (từ láy Hán Việt: bay, trôi chầm chậm) là những hình ảnh chỉ có
được trong một ngày đẹp nắng, hoặc buổi chiều tà đẹp trời. Không thể là cảnh
ngày đông bầu trời xám xịt u ám, “hoang lạnh” (chữ của Vũ Thị
Sao Chi-HTC). Và theo tôi, “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây
chầm chậm bay giữa từng không”là những hình ảnh đẹp, gợi vẻ êm ả, thanh
bình, trìu mến của bầu trời cảnh vật vùng sơn cước lúc chiều tà, không hẳn “gợi
sự lẻ loi, đơn chiếc, trống vắng, hoang lạnh” như cách hiểu của ThS.
Bởi điều này không phù hợp với cái nhìn lạc quan trong mọi hoàn cảnh thường
thấy trong thơ Hồ Chí Minh, và cụ thể đối với chính bài “Mộ”.
Tóm lại, chữ “hồng” (烘)
trong bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh nghĩa là đốt lên, nhóm lên,
sưởi ấm, không phải chữ “hồng” (紅) với nghĩa là mầu
hồng. Có lẽ, do ngay từ bản dịch nghĩa, Nam Trân đã dịch
thoát chữ “hồng” (Ngô xay xong lò than đã đỏ) nên
tạo ra sự hiểu nhầm cho không ít người, trong đó có ThS. Vũ Thị Sao Chi. Nhưng
khi dịch thơ Nam Trân lại thêm từ “rực” vào : “Xay hết lò than đã rực
hồng” (lò than cháy rừng rực). Cách dịch của Nam Trân là chấp nhận
được và phải thừa nhận rằng đây là bản dịch hay nhất từ trước tới nay.
Dịch nói chung và dịch thơ nói riêng, có trường hợp làm
cho bản gốc trở nên hay hơn. Cũng có khi không thể chuyển tải hết ý của nguyên
tác. Đó là chuyện thường thấy và phải biết chấp nhận. Hơn nữa khi đã đi sâu vào
phân tích, cảm thụ thơ dịch (đặc biệt là thơ chữ Hán) nên tìm hiểu, so sánh với
phần nguyên tác. Không nên tìm hiểu qua phần phiên âm,
dịch nghĩa, dịch thơ rồi vội nhận xét, phê bình, đặc biệt đối với
những bài truyền đạt cho giáo viên, học sinh./.
Thanh Hoá 20/08/2007
Chú thích:
(1)-Tất cả các sách xuất bản có in phần nguyên tác chữ Hán bài
thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh đều thấy chữ “hồng”( 烘) có
bộ hoả này, kể cả bút tích của bài thơ.
(2) (3) (4) (5) (6) –Những câu thơ này đều trích trong “Ngục
trung nhật ký-Hồ Chí Minh.
(*) (Hiện là Tiến sĩ - Phó tổng biên tậpTạp chí ngôn ngữ học-Viện ngôn ngữ học Việt Nam).
10 thg 10, 2013
SAI LẦM MANG TÍNH HỆ THỐNG TRONG
“TỪ ĐIỂN THÀNH NGỮ VÀ TỤC NGỮ VIỆT NAM”
của GS Nguyễn Lân
của GS Nguyễn Lân
HOÀNG TUẤN CÔNG
Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam - tác giả GS Nguyễn Lân - In lần đầu 1989, tái bản nhiều lần.
Bản sử dụng sau đây của Nhà xuất bản Thời Đại 2012 .
Cuốn “Từ điển Thành ngữ và tục ngữ Việt Nam ” của GS Nguyễn Lân gây cho tôi nhiều thú vị và ngạc nhiên lớn.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)