Khu lăng miếu Triệu Tường Ảnh tư liệu trước 1945 |
5 thg 4, 2014
NGUỒN GỐC GIA MIÊU NGOẠI TRANG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA DÒNG HỌ NGUYỄN TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC
4 thg 4, 2014
TRẠNG QUỲNH, ÔNG LÀ AI ?
HTC: Sau
khi đăng bài "Người Thanh Hóa dưới "nửa" con mắt của GS Ngô Đức
Thịnh", bạn Trần Đức Anh-Giảng viên khoa Toán của Trường Đại học sư
phạm Hà Nội có chia sẻ: "Bài viết
rất thú vị, và có nhiều thông tin về Thanh Hóa, vùng đất mà người khác tỉnh như
cháu còn ít biết. Bài báo nói tới truyện Trạng Quỳnh.Cháu không rõ nhân vật này là thực hư thế
nào, và tác giả của truyện là ai?
Chúng tôi có hứa với bạn Đức Anh là Thư Phòng sẽ có bài viết của Hoàng Tuấn Phổ nói rõ hơn về nhân vật Trạng Quỳnh. Mời bạn
đọc cùng tham khảo.
Chúng tôi có hứa với bạn Đức Anh là Thư Phòng sẽ có bài viết của Hoàng Tuấn Phổ nói rõ hơn về nhân vật Trạng Quỳnh. Mời bạn đọc cùng tham khảo.
3 thg 4, 2014
PHÉP VUA CÓ THUA LỆ LÀNG ?
2 thg 4, 2014
NGƯỜI THANH HÓA DƯỚI “NỬA” CON MẮT CỦA GS Văn Hóa NGÔ ĐỨC THỊNH
NHÂN TÌNH và TÌNH NHÂN
Nhân tình và tình nhân là hai từ Việt gốc Hán có hai
nghĩa khác nhau. Nhân tình人情 = tình người; tình cảm giữa người với người; lòng dân, tình
hình dân chúng; còn tình nhân 情人 = người tình; người yêu.
Tuy nhiên, thực tế sử dụng hai từ này trong
tiếng Việt lại khá rắc rối. Nhiều người dùng đúng, nhưng cũng không ít người
nhầm lẫn, đánh đồng, hoặc không phân biệt rõ ràng giữa hai từ nhân tình và tình
nhân.
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) ghi nhận cách dùng
trong thực tế như sau:
- tình nhân = “người yêu. “Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa
xưa ong cũ, mấy phân chung tình!” (TKiều)”.
- nhân tình =
“người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với
người ấy. có nhân tình ~ bỏ nhà theo nhân tình”.
- “tình nhân như nhân
tình. “…vợ ông phán mọc sừng đang bù khú với tình
nhân ở phòng bên cạnh…” (Vũ Trọng Phụng).
Cách dùng tùy tiện hai từ nhân tình và tình
nhân không chỉ tồn tại trong đời sống ngôn ngữ đại chúng, mà còn in
dấu ấn vào chữ nghĩa của cả những người cầm bút chuyên nghiệp. Mở đầu bài thơ Ghen, Nguyễn Bính Viết:
“Cô nhân tình bé của tôi ơi,
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười.
Những lúc có tôi, và mắt chỉ,
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi…”
Nếu hiểu nhân tình = “người
có quan hệ yêu đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người
ấy”, như Từ điển của Hoàng Phê giảng, thì “Cô nhân tình bé
của tôi ơi”, trong thơ Nguyễn Bính hẳn là một phụ nữ ngoại
tình, một kẻ đáng chê. Trong khi vào nội dung bài thơ, thì “cô nhân tình”
này là một cô người yêu có vẻ đẹp và tất cả sự trong trắng,
khiến nhà thơ phải “ghen” đến mức muốn giữ tất cả cho
riêng mình:
“…Tôi muốn những đêm đông giá lạnh,
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô,
Bằng không tôi muốn cô đừng gặp,
Một trẻ trai nào trong giấc mơ...”
Như vậy, nếu đây là văn bản đáng tin cậy, thì
Nguyễn Bính đã dùng từ nhân tình với nghĩa không chuẩn xác.
Với Vũ Trọng Phụng thì khi viết “…vợ ông
phán mọc sừng đang bù khú với tình
nhân ở phòng bên cạnh…”, ông đã dùng đúng hai
chữ tình nhân (người tình) theo nghĩa và cú pháp của một từ
Việt gốc Hán. Trong khi nhân tình mà từ điển của Hoàng
Phê đã giảng “người có quan hệ yêu đương không chính đáng với người
khác, trong quan hệ với người ấy”, thực chất (hoặc có thể) là cách diễn dịch hai chữ nhân tình theo
cú pháp tiếng Việt thành người tình.
Trong tiếng Hán, nhân tình được Hán ngữ đại từ điển giảng tới 8
nghĩa, như: 1.tình cảm của con người (hỉ,
nộ, ai, cụ, ái, ố, dục); 2. Tình thường của con người; 3. Lòng người, tình
cảm, nguyện vọng của quần chúng; 4. Tình thân giữa người và người; 5. Dân tình;
phong tục dân gian; 6. Tình bạn bè với nhau, v.v…Không thấy nhân tình có nghĩa nào chỉ người tình, người yêu. Trong khi tình nhân 情人 được Hán ngữ đại từ điển giảng hai nghĩa là: người
yêu, bạn thân.
Đáng chú ý, con đường đưa hai chữ nhân
tình trở thành tình nhân-người tình đã được Việt
Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức - 1931) ghi nhận: “nhân tình 人情 • Tình của người ta <> Nhân-tình phản-phúc.
Dùng sang tiếng Nam có nghĩa là người có tình-ái riêng với nhau hay là lòng
tư-túi nhận của đút lót <> Đem tiền cho nhân-tình. Người kia bị
kiện, nhưng đã có nhân-tình với quan.”.
Vậy, khi dùng đúng, nhân tình và tình
nhân có những nghĩa nào? Xin liệt kê một số nghĩa
chính sau đây:
1-NHÂN TÌNH:
-Tình người: Thành ngữ Hán Việt có
câu Nhân tình thế thái (hoặc Thế thái nhân tình)
có nghĩa là tình người, thói đời. Cụ Tú Xương khi nói về tình
người bạc bẽo đã viết: Đ.mẹ nhân tình đã biết rồi/Lạt
như nước ốc bạc như vôi; Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo/Nhân tình bạc
thế lại bôi vôi. Hay Trước đèn xem truyện Tây minh/Gẫm cười
hai chữ nhân tình éo le (Lục Vân Tiên). Ở đây, từ nhân tình đã được
dùng chính xác với nghĩa là tình người, lòng người.
-Dân tình: Phong tục tập quán, sinh hoạt của dân chúng; lòng dân, nguyện
vọng của dân chúng (nghĩa cổ). Ví dụ “Chuyến
đi sang Pháp này, Trương Vĩnh Ký cũng thu thập, học hỏi được nhiều điều: “Vĩnh
Ký trong 9 tháng giúp theo Sứ sự, đều đặng hoàn toàn; nhơn đó mà lại được quan sát nhơn tình, phong
tục, châu lưu thành quách sơn xuyên…”
(Trương Vĩnh Ký hành trạng – Đặng Thúc Liêng).
-Người tình: Người có quan hệ bất
chính, khi cả hai (hoặc một trong hai) đang có vợ, có chồng. Ví dụ Ông
ấy bắt nhân tình với một cô đang còn trẻ lắm, hoặc Ông ấy có
nhân tình nhân ngãi với một bà goá chồng.
Lưu ý, nhân tình với
nghĩa người tình, người yêu trong quan hệ luyến ái, yêu đương
chân chính (như cách dùng của Nguyễn Bính trong bài thơ Ghen) hầu
như không được dùng trong thực tế.
2-TÌNH NHÂN:
-Người tình: người có quan hệ yêu
đương không chính đáng với người khác, trong quan hệ với người ấy.
-Người yêu: người có quan hệ tình
cảm thắm thiết, có ý muốn chung sống và gắn bó cuộc đời với một người nào đó
(thường chỉ trai chưa vợ, gái chưa chồng). Đây cũng chính là nghĩa của hai chữ tình nhân trong câu thành ngữ Hán Tình
nhân nhãn lý xuất Tây Thi - 情人眼裏出西施, nghĩa là: Trong
mắt người yêu, cô gái hiện ra với vẻ
đẹp của nàng Tây Thi.
Như vậy, tình nhân (người yêu) không
đồng nghĩa với nhân tình (tình người; bồ bịch). Thế nên, người
ta gọi Ngày lễ tình nhân chứ không ai gọi Ngày lễ nhân
tình!
Hoàng Tuấn Công
30 thg 3, 2014
Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân
ĐỀN ĐỒNG CỔ KHÔNG THỜ THẦN TRỐNG ĐỒNG
Hoàng Tuấn Công
Đền Đồng Cổ ở Yên Định-Thanh Hóa Ảnh: Cổng TTĐT Yên Định |
24 thg 3, 2014
Thử lý giải những sai sót để đời
Trong loạt bài vừa qua, chúng tôi đã nói nhiều đến những sai sót do trình độ, kiến thức sách vở của GS Nguyễn Lân. Như: cách hiểu thành ngữ, tục ngữ, từ Hán Việt; phương pháp luận, kiến thức ngôn ngữ học, kiến văn,v.v...Phải thừa nhận đó là những vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên kỳ này, mời bạn đọc cùng chúng tôi nói đến một lĩnh vực dễ hơn nhiều. Đó là: tiếng mẹ đẻ - thứ tiếng mà đa số chúng ta có thể làu làu qua cách học truyền khẩu.
18 thg 3, 2014
LÊ THÁNH TÔNG VÀ HÌNH LUẬT
- HOÀNG TUẤN PHỔ
17 thg 3, 2014
VĂN HÓA THĂNG LONG
11 thg 3, 2014
Thử lý giải những sai sót để đời
3 thg 3, 2014
Những sai lầm mang tính hệ thống trong
1 thg 3, 2014
Thử lý giải những sai sót để đời
21 thg 2, 2014
THỬ LÝ GIẢI NHỮNG SAI SÓT ĐỂ ĐỜI
12 thg 2, 2014
THỬ LÝ GIẢI NHỮNG SAI SÓT ĐỂ ĐỜI
Thiếu kiến thức cơ sở ngôn ngữ học
7 thg 2, 2014
Thử lý giải những sai sót để đời
chịu trách nhiệm về những gì họ đã viết" (AN CHI)