Ảnh minh hoạ: ST |
Trong “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương – NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh – 2010) có một số câu tác giả thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Một trong số những câu “chưa rõ nghĩa” đó là: “Muốn ăn đi tát; muốn ngồi mát đi câu”.
Sau đây, chúng tôi xin đưa ra cách giải thích câu tục ngữ này.
“Đi tát” ở đây là
tát vũng, tát đầm, tát đìa để bắt cá, một kiểu đánh bắt chắc ăn nhất. Thế nên
thành ngữ “Tát cạn bắt lấy”, ý chỉ “tát” là cách bắt cá cho bằng được và có thể
bắt cho bằng hết. Tục ngữ Hán cũng có câu gián tiếp nói lên ý này: “Không
tát cạn đầm để bắt cá, không đốt cháy rừng để săn cầm thú” [Bất hạc trạch nhi ngư, bất phần lâm nhi liệp - 不涸澤而漁不焚林而獵 - không
nên khai thác theo kiểu tận diệt, bắt cho bằng hết].
Như vậy, “muốn ăn đi tát”, có nghĩa “đi tát” tuy vất vả, nhọc công nhưng lại thu được kết quả chắc chắn
và số lượng nhiều cá, con to con nhỏ gì đều thấy và bắt được hết.
Với “đi câu” thì ngược lại: “Thôi đừng đáy bể mò kim, Bóng chim tăm cá dễ tìm được nao!”; “Chim trời cá nước”; “Ai uốn câu cho vừa miệng cá”! (lời dân gian). Cá sống dưới nước, mắt thường ta đâu có nhìn thấy. Cá có cắn câu hay không, nhiều hay ít, cá to hay cá nhỏ còn phụ thuộc vào sự may rủi. Có hôm đi câu cả buổi, “Nhắc như nhắc câu” (nháy cần câu để nhử cá liên tục) nhưng có khi cuối cùng vẫn phải về tay không. Thế nên dân gian cho rằng, không còn cách nào khác người ta mới lựa chọn nghề đi câu (“Vô nghệ đi hát, mạt nghệ đi câu”).
Sản phẩm của "đi tát", con to con nhỏ đều bắt được bằng hết Ảnh: báo Dân Trí |
Không hẹn mà gặp. Sự kém hiệu quả của đánh bắt cá bằng câu còn được thể hiện qua tục ngữ của nhiều dân tộc khác. Ví như Tục ngữ Tày: “Quăng chài: người chăm chỉ; câu cá: người thừa, bỏ đi” (Tót khe: vỏ xắc; tức bất: vỏ lưa); "Quăng chài ăn cướp, đi câu ăn xin" (Tức khe xin cướp, tức bất kin xo)[1]; Tục ngữ Mường: “Muốn ăn cơm lấy người xáo cỏ dác, muốn húp nước lấy người đi câu” (Moành ăn cơm lêế khá keo dạc, moành họt rạc lêế khá đi câu)[2].
Câu cá thường có hai
cách chính:
-Câu cặm: dùng mồi là nhái, hay giun rồi cắm thật chặt cần câu vào bờ,
hay các bè chuối nhỏ cho trôi lênh đênh trên mặt nước (thường là ruộng lúa, ao
hồ, đầm…) rồi ra về, sau đó ra nhấc câu để thu cá. Cách này tuy cũng phụ thuộc
vào may rủi, nhưng không vất vả hay mất thời gian.
-Câu rê, câu nhử: phải trực tiếp cầm cần, hoặc trông coi câu để khi động
đậy phao thì cầm cần lên để nhử, xem chừng cá đã cắn câu thì giật lên. Cách này
tuy cũng nhàn hạ, nhưng mất thời gian và phụ thuộc vào may rủi. “Đi câu” trong “muốn ngồi mát đi câu” là nói đến cách câu này.
Khi câu rê, câu nhử, người ta
thường lựa chỗ có bóng cây, bờ kè nơi ao chuôm hoặc đồng ruộng để ngồi câu. Đó
là chỗ nước mát, cá tôm hay tập trung trú ngụ. Người đi câu chỉ ngồi trên bờ, vừa
thả câu vừa thảnh thơi hóng gió mát, cơ bản chẳng phải hì hục, chân lấm tay bùn
như tát cá, nhưng hiệu quả thu được thì thường ít ỏi hoặc không chắc ăn. Thế
nên đi câu chỉ được xem là một thú vui tao nhã của kẻ nhàn hạ. Thậm chí, tục ngữ
“Bé đi câu, lớn đi hầu”, đã liệt đi câu vào kiểu chơi bời lêu lổng, không còn
thì giờ dành cho việc học hành nữa.
Như vậy, “Muốn ăn đi tát, muốn ngồi mát đi câu”, ý nói: đi câu tuy nhàn hạ hơn
đi tát nhưng không chắc ăn, ít hiệu quả.
Hoàng Tuấn Công/6/2021
[1]-Tục ngữ Tày (Triều Ân - Hoàng Quyết, NXB Văn hoá Dân tộc - 1996).
[2]-Tục ngữ Mường (Cao Sơn Hải - NXB Văn hoá Thông tin - 2002)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét