Đám cưới chuột Tranh dân gian Đông Hồ |
Trong
số 12 con giáp, Tí 子 (chuột) là con vật nhỏ bé nhỏ,
hèn mọn, nhưng lại chễm chệ chiếm ngôi đầu. Và kỳ lạ thay, dù bị loài người tìm
trăm phương ngàn kế tiêu diệt, họ hàng nhà chuột vẫn hưởng một suất nắng mưa chẳng
đến đầu, sống chung một nhà với con người, đời nối đời sinh con đẻ cái. Dân
gian nói rằng “Vạn thiên cầm thú tôn vi tý/Thập nhị sinh tiêu độc chiếm tiên” (Trăm ngàn con thú tôn là chuột/Mười hai con
giáp riêng đứng đầu) quả không ngoa!
Chuột
có giống chuột nhà, chuột đồng. Chuột nhà lại có chuột nhắt, chuột cống. Tục ngữ
“Chuột bầy/đàn đào không nên lỗ”, được
“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam”
(Nhóm Vũ Dung) giải thích là đồng nghĩa với câu“Cha chung không ai khóc”. Tuy nhiên, “chuột bầy” hoặc “chuột đàn”
ở đây là giống chuột nhắt, chuột nhỏ (Thành ngữ “Gan chuột nhắt”, hay “Bé như
con chuột nhắt” ám chỉ kẻ hèn nhát, thân phận nhược tiểu, chính là nói đến
loại chuột này).
Chuột
nhắt sinh sống, kiếm ăn theo bầy. Chuột bầy sức vóc bé nhỏ, không đào hang, mà mượn
nơi kẽ tủ, góc rương, giá sách, mái tranh… làm tổ. Còn loại to khoẻ như chuột cống
ưa đi ăn mảnh mới tự đào hang, nên còn gọi là chuột lỗ. Giống chuột lỗ to khoẻ,
táo tợn bắt cả gà, đến chó mèo cũng phải kiêng dè. Theo đây, “Chuột bầy đào không nên lỗ” chỉ những kẻ
thấp kém bé nhỏ, thì dù có đông đúc bằng mấy cũng chẳng làm nên chuyện gì; gần
nghĩa với câu “Quần hồ bất như độc hổ” 群狐不如獨虎 (Cáo bầy chẳng bằng hổ một).
Chuột
lỗ đào hang cực khoẻ. Chỉ sau một đêm hì hục trong sự im hơi lặng tiếng của chó
mèo, chuột lỗ đã đùn ra hàng đống đất cát dưới gầm giường, xó buồng. Câu “Chuột già có ba cái hang”, không có
nghĩa một con chuột có tới ba cái hang riêng biệt ba nơi để ở, mà chỉ sự tinh
quái của chúng. Khi đào hang, bao giờ chuột lỗ cũng trổ ra nhiều ngách, với nhiều
cửa thông nhau, phòng khi có biến. Ngày lấp lại, đêm chúng lại đào ra. Có con
đêm ngủ ngáy khò khò như thể chính nó mới là chủ nhân của ngôi nhà vậy. Nhưng
đa phần chuột lỗ “xuất quỷ nhập thần”, “lai vô ảnh khứ vô hình”. Nhìn thấy dấu
đất đào còn mới tinh cửa hang đó, nhưng chúng có trong hang hay không thì không
chắc.
Để
diệt chuột lỗ, người ta thường dùng cách hun khói. Thành ngữ “Hun như hun chuột” (người Thanh Hoá nói
“Hầm như hầm chuột”) nghĩa đen xuất
phát từ việc hun chuột phải kiên trì, bền bỉ, liên tục duy trì sức nóng và sự đậm
đặc của khói lửa. Vì có thể khói mới lan ra như một làn sương mỏng, cộng với tiếng
ồn ào, í ới là chuột lỗ đã bất ngờ “mở đường máu”, đội tung cả đám than trấu
đang ngún khói để thoát thân. Nhưng có con cực gan lì và sức chịu đựng rất ghê gớm.
Thành ngữ “Náu im như chuột” chỉ những
con chuột bị truy đuổi đến bước đường cùng thì giả vờ treo mình, nằm im như
thóc, dù có khua động thế nào nó cũng không chạy ra. Nhưng người ta vừa đi khỏi,
là nó chạy vụt sang một nơi an toàn khác. Thế nên, đôi khi bị hun cả tiếng đồng
hồ, nhưng chuột lỗ vẫn nín lặng như thể “đi
đâu vắng nhà” vậy. Thành ngữ “Lờ đờ
như chuột phải khói”, chỉ con chuột bị hun khói, bước đường cùng phải bò ra
ngoài trong tình trạng thiếu ô xy, lờ đờ lảo đảo như sắp chết, đâm quàng đâm
xiên. Dị bản “Lù đù như chuột chù phải
khói” nhấn mạnh hơn. Vì chuột chù vốn đã lù đù, chậm chạp, lại thêm “phải khói” nữa thì bộ dạng còn lù đù chậm chạp hơn nhiều.
Trong
Hán tự, chữ “thử” 鼠 là con chuột. Sách “Tìm về cội nguồn chữ Hán” (Lý Lạc Nghị
- Jim Waters) cho biết: “Thử trong chữ
Giáp cốt là một chữ tượng hình rất sinh động: có mõm nhọn, răng sắc, lưng khom,
chân ngắn, và đuôi dài; bên cạnh vẫn còn những miếng thức ăn thừa”.
Không
phải ngẫu nhiên mà con chuột tượng hình chữ viết được đặc tả hàm răng sắc với
những mẩu thức ăn thừa, bởi nói về sự gây hại của chuột thì không bút nào tả xiết.
Trong
nhà thì từ đồ ăn thức uống, đến quần áo chăn màn, rương tủ… chúng đều cắn phá,
không ăn thì cũng đạp đổ, làm cho ô uế; ở ngoài đồng thì chúng đánh chén từ khi
mới bắt đầu gieo hạt cho đến lúc thu hoạch. Thành ngữ “Hoài hồng ngâm cho chuột vọc”, ý nói đồ ăn thức uống ngon quý mà bị
chuột vọc vào thì coi như đành bỏ phí, giống như người con gái đẹp lấy phải thằng
chồng chẳng ra gì.
Thành
ngữ “Lý lắt/lấm lét như chuột ngày”,
nói lên sự kiêng dè, vụng trộm khi kiếm ăn ban ngày của lũ chuột. Nhưng đêm xuống,
chúng ngang nhiên gậm kháo sồn sột, hết tranh giành chí choé, lại rúc rích hú
hí với nhau khiến người ta phát điên.
Người
sống đã vậy, người chết cũng không yên với chuột! Chốn tôn nghiêm là bàn thờ tổ
tiên, chúng leo lên, cỗ bàn đánh chén trước tiên, rồi đạp đổ, phóng uế… Cõi
vĩnh hằng nơi tha ma mộ địa chúng cũng đào bới, đục khoét đến lộ cả tiểu sành…
Hàng
ngàn năm qua, con người xem chuột là một thứ “giặc”. Nhưng tiêu diệt giống vật
đa nghi, tinh quái này không dễ. Người ta chế ra trăm ngàn thứ bẫy bả để đánh
chuột, nhưng chúng cũng tương kế tựu kế, tìm đủ cách để sinh tồn. Bởi vậy, đặt
bẫy, dùng bả có khi chuột chẳng hề gì mà chó, mèo, gà, thậm chí là chính con
người đã phải mất mạng. Còn đánh đuổi chuột thì lắm khi chuột chẳng chết mà
chum vại, bát chén lại vỡ tan tành! Thế nên tục ngữ Việt Nam mới có câu “Ném chuột còn ghê chạn bát”; tục ngữ Hán
cũng có câu “Đầu thử kỵ khí” 投鼠忌器 (Ném chuột
sợ vỡ đồ).
Nguyên thời
Tây Hán, một lần Đại văn học gia Giả Nghị nói với vua Cảnh Đế: “Tục ngữ có câu “Đầu
thử kỵ khí”, ý nói một người cầm gậy muốn ném chuột, nhưng lại sợ làm vỡ đồ vật
ở ngay bên cạnh con chuột. Có khi đánh chuột không thành mà lại làm vỡ đồ. Ví
như đám bề tôi gần gũi Chúa thượng, dẫu có làm việc lầm lỗi hoặc phạm tội chăng
nữa, cũng không ai dám tố giác, càng không ai dám chửi rủa. Sở dĩ những hình phạt
như thích chữ lên mặt, hay xẻo mũi không thể đụng chạm đến những vị ấy được,
nguyên nhân cũng vì họ đều thân cận hai bên tả hữu Chúa thượng, nên phải tôn trọng
Chúa thượng vậy” (“Hán thư-Giả Nghị truyện”-漢書, 價議傳).
Theo đây,
truyện Giả Nghị trong sách Hán thư còn
cho biết, xưa có một phú ông đam mê đồ cổ, và sưu tập được rất nhiều. Trong số
đó, có một món đồ cực quý hiếm, nghệ thuật tinh mỹ, gọi là liễn ngọc (nguyên văn “ngọc vu” 玉盂). Nhiều kẻ sưu tầm đồ cổ giàu có khác rất thèm muốn. Chiều
tối một ngày nọ, bỗng có con chuột chui vào liễn ngọc tìm kiếm thức ăn. Phú ông
nhìn thấy và vô cùng tức giận. Trong cơn thịnh nộ, ông cầm hòn đá ném mạnh khiến
con chuột kia chết ngay tức khắc. Nhưng than ôi, chiếc bình ngọc quý của phú
ông cũng vỡ tan tành. Lúc này, phú ông mới cảm thấy nuối tiếc và vô cùng hối hận
bởi hành vi vội vàng, lỗ mãng của mình.
Một
trong những nguyên nhân khiến “giống chuột
xưa nay vẫn sống đời” chính là khả năng sinh sản cực nhanh của chúng. Có lẽ
bởi vậy mà tạo hoá đã phải sai phái một “dũng sĩ” bé nhỏ mà đầy nanh vuốt, ngày
đêm rình rập để cân bằng sự sinh sản của chuột. Đó chính là mèo!
Ngạn
ngữ Nga có câu “Đối với
chuột thì không con thú nào mạnh hơn con mèo”. Quả vậy! Mèo là nỗi khiếp đảm
của loài chuột.
Chuyện kể rằng, một hôm họ hàng nhà chuột họp bàn
cách đối phó với mèo. Một con chuột nhắt hiến kế: “Sở dĩ chúng ta bị bắt là bởi
không biết khi nào mèo đến gần. Bây giờ, hãy đeo cái
chuông vào cổ mèo. Nó đi đến đâu chúng ta đều nghe thấy và sẽ dễ dàng lẩn trốn”.
Lời đề nghị này được khen là diệu kế. Thế nhưng, một con chuột già đứng dậy
nói: “Tốt lắm, vậy ai sẽ là người đeo
chuông vào cổ mèo?”. Ngoài nghĩa bóng “nói thì dễ, làm mới khó”, câu chuyện còn cho thấy nỗi khiếp sợ và sự bất lực của chuột trước sức mạnh
của mèo.
Thế nên, tranh dân gian “Đám cưới chuột” (Việt Nam và Trung Quốc đều có)
phản ánh một thực tế: thay vì chống lại, cuối cùng loài chuột vẫn phải tìm cách
lẩn trốn, quy phục, cống nạp cho mèo, bởi “Sắc nanh, chuột dễ cắn được cổ
mèo”! Câu này được từ điển của GS. Nguyễn Lân giải
thích: “Dù là kẻ thù nguy hiểm thế nào nếu mình có mưu mẹo, có
phương tiện thì mình cũng thắng”. Tuy
nhiên, “dễ” ở
đây không phải “dễ dàng” (ngược lại với khó) mà có nghĩa là liệu có
thể, khó có thể, chưa chắc, đâu dễ. Theo đó,
dù nanh có sắc nhưng chuột cũng khó có thể cắn
được cổ mèo.
Thực
tế, mèo không bắt chuột cống, vì giống chuột này hôi hám, bẩn thỉu, không phải
là món khoái khẩu của mèo. Hơn nữa, trong thế giới tự nhiên, khi các con thú ăn
thịt đang còn sự lựa chọn, thì không bao giờ chúng săn bắt, tấn công những đối
tượng “xương xẩu”. Bởi vậy, khi thấy chuột cống thì mèo... làm ngơ! Nhưng không
vì thế mà chuột cống không sợ mèo, và có thể dễ dàng “cắn được cổ mèo” -
con vật được mệnh danh là “tiểu hổ”, nhưng lại là thầy
dạy võ cho hổ.
Tục ngữ Hán có câu “Lợn rừng ngàn năm
vẫn là thức ăn của hổ” (Thiên niên đích dã trư lão hổ đích thực-千年的野豬老虎的食). Chuột với mèo thì cũng giống như lợn rừng đối với
hổ mà thôi. Nghĩa là: kẻ yếu hèn dù cố gắng bằng mấy cũng khó lòng
địch nổi sức mạnh áp đảo của kẻ ở thế thượng phong; Kẻ xấu xa dù có tìm mọi cách cũng không thắng nổi được sức
mạnh của chính nghĩa. Loài
chuột chuyên đục khoét gây hại, dù ranh ma, tinh quái bằng mấy cũng sẽ bị tiêu
diệt!
HTC Xuân Canh Tý/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét