Cây kè ở Thanh Hoá Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN PHỔ
Ông Khai
không giấu được bực bội: “Rõ cái đồ liền bà con gái, trong lúc người ta đang
cần lại giở trò đau bộng đau bão!”
Chị Phương
nhăn nhó: “Em đến kỳ đau bụng thật mà!”
Ông Khai hất
hàm khoát tay: “Tạm tha cho về, bữa mô phải đến tiếp tục công việc...khai báo
chưa xong!”
Chị Phương
vội vàng ra về, không dám ngoảnh cổ nhìn lại.
Anh Lưỡng
cũng vừa đến. Ông Khai ra lệnh: “Đồng chí đưa thằng Phổ về, tạm thời cho quản
thúc tại gia, cấm bước chân ra khỏi
ngõ!”
Anh Lưỡng
ngập ngừng: “Báo cáo thủ trưởng, “đưa” ra răng ạ?”
Ông Khai
đang cáu có vẻ vì chuyện đêm qua: “Răng với chả lợi! Cứ theo luật!"
Luật gì? Có
lẽ là luật bắt trói, giam giữ, đánh người vô tội vạ! Một thứ luật không có văn
bản của Thủ trưởng Trần Ngọc Khai, chỉ có nhân viên Lê Quang Lưỡng hiểu được.
Anh trói tay tôi lại, theo “nguyên tắc” quặt hai cánh tay ra sau lưng, nhưng
không đến nỗi chặt, hẳn vì bữa cơm rượu tối hôm nọ hãy còn hơi men?
Qua Tết
Nguyên đán, không khí đấu tranh chính trị có phần lắng dịu. Dân làng tôi ngày
càng trở nên sôi nổi hơn trong việc dân công tiếp tế phục vụ chiến trường Điện
Biên Phủ. Đợt trước chưa về, đợt sau đã lên đường. Đàn ông, đàn bà, con trai
con gái đều nô nức xung phong. Số người được trực tiếp vận tải ra tận chiến
trường không nhiều. Phần đông làm nhiệm vụ gánh chuyền cho nhau từng đoạn dài.
Đoạn mở đầu từ Quảng Xương lên tận Suối Rút, Cành Nàng (Quan Hoá, Bá Thước).
Ngày nghỉ, đêm đi. Mỗi người một đôi bồ nặng trên vai và một chiếc đèn chai
xách tay. Đầu không nón mũ, chân không giày dép. Gặp cơm mưa rừng, chỉ một mảnh
ni lông dành cho đôi bồ gạo, vì người ướt sẽ khô, gạo ướt không thể khô. Đoàn
dân công nối nhau dài vô tận, vui hơn ngày Tết, đông hơn trẩy hội.
Ở nhà, các
cụ ông đan bồ, đẽo đòn gánh không kịp. Làng tôi không trồng nứa, nhưng tre thì
nhiều. Nhà nào cũng um tùm, xum xuê bóng mát một vài bụi góc vườn, đầu ngõ. Anh
Nậu nhà tôi cũng được đi. Anh là con nhà phản động, nhưng con nuôi. Các gia
đình khác, đã thuộc thành phần phản động, con cái liên quan cũng không được đi,
hoặc chỉ được đi đoạn đường ngắn, khoảng dăm bảy chục cây số. Người ta đề phòng
thành phần xấu đi sẽ đổ bớt gạo trong rừng đi cho nhẹ gánh, thậm chí có thể
dùng gương chiếu lên trời làm tín hiệu báo cho tàu bay địch đến ném bom vào
đoàn dân công.
Anh Nậu gánh
bồ gạo lên đến Cành Nàng (huyện Bá Thước, chừng hơn 200 cây số) trở về kể
chuyện vui lắm. Anh tha hồ “hò”, được hoan nghênh rất nhiều. Ai cũng vừa đi vừa
thi nhau hò, quên cả mệt nhọc. Anh Nậu
hết sức kinh ngạc: “Không biết gạo ở mô ra mà lắm rứa!”
Mẹ tôi nói:
“Thì ở trong dân chứ còn ở mô!”
Tôi chợt nhớ
đến số “thuế khả năng” 10 tạ cả thóc cả tiền của nhà mình. Vô cùng to lớn so
với khả năng của nhà mình. Bò cày, mâm thau, nồi đồng, giường, tủ...và những tạ
thóc, biết bao hạt vàng, hạt ngọc, hạt mồ hôi, hạt nước mắt! Chắc trong số thóc
khổng lồ như núi, như non vận tải ra chiến trường có phần đóng góp vô cùng nhỏ
bé, chỉ bằng hạt cát của nhà mình?
Nghe tôi nói
vẻ đầy hứng thú, mẹ tôi bảo: “Như rứa cũng đáng. Nhưng không khéo tất cả lại đổ
vô mồm thằng Lời, thằng Cán!”.
Tôi giật
thót mình: “Chết! Mẹ nói thế lỡ ra đến
tai các ông ấy!”
Mẹ tôi điềm
nhiên: “Thì tau nói nhỏ ở nhà thôi, ai nghe!”
Tôi lắc đầu:
“Bờ vách có tai, bờ rào có mắt!”
Tuy nhiên,
không khí đấu tranh chính trị ở làng tôi chỉ là bầu trời lặng gió trước cơn bão
tiếp tục quật xuống gia đình tôi dữ dội hơn.
Chủ tịch xã
Lê Quang Lời lệnh bắt tôi giải lên
huyện. Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Đỗ Đan Quế phân tích cho tôi hiểu
điều hơn lẽ thiệt: “Gia đình anh trước Cách mạng bị phong kiến cường hào chèn
ép, đế quốc phế bỏ. Cha anh làm Thư ký Sở Địa chính được dăm năm thì chúng đuổi
về. Lại đầu đội vai vác như ai! Tại sao sau Cách mạng, gia đình anh, cụ thể là
cha anh, chú anh lại làm phản động chống phá cách mạng, phản quốc hại dân. Bi
giờ hối lỗi còn kịp. Cha chú anh khai báo cả rồi! Còn anh, anh biết gì cũng
phải thành khẩn!”
Ông Chủ tịch
huyện chỉ nói đúng một nửa - nửa trước Cách mạng - còn sau Cách mạng ông không
hiểu. Tôi thưa: “Tôi không biết mình mắc tội gì”. Ông Đỗ Đan Quế nói: “Được, tí
nữa toà làm việc, anh sẽ rõ”.
Xin dừng lại
để nói đôi điều.
Tôi nghe
danh Đỗ Đan Quế, Phạm Tiến Năng đã lâu. Các ông ký Nho, giáo Mai, hàn Sây...đến
nhà tôi chơi, cùng bố tôi nói chuyện đều tỏ ý kính trọng các bậc tiền bối cách
mạng ấy.
Năm 1992,
ông Trịnh Đình Thai, (nguyên Đại uý huyện đội Quảng Xương, sinh năm 1920, đã về
hưu) đưa tôi xem một tập Hồi ký của ông. Tôi được biết ông Thai bí mật gia nhập
Đảng cộng sản từ trước năm 1945, nhưng vẫn làm lính nguỵ quân, cùng đơn vị với
Nguyễn Văn Thiệu (sau làm Tổng thống Việt Nam cộng hoà). Nhà Thiệu nghèo lắm,
lại đông anh em, Thiệu phải làm thêm, đêm đêm đánh máy thuê, phương pháp “mười
ngón” rất giỏi. Ông Thai có thành tích “50 năm tuổi Đảng”, khai báo mãi không
được, vì cái tích đi lính Pháp ấy. Sau phải tốn nhiều công mới xong.
Về Đỗ Đan
Quế, ông Thai nói năm cải cách ruộng đất, không biết đứa nào dựng lên cái tổ
chức Quốc dân Đảng do ông Quế làm Bí thư, nên ông bị bắt bỏ tù. Trong trại tù,
nhân dịp tết Nguyên đán, tù nhân được phép diễn kịch mua vui. Đề tài, nội dung
phải qua ban Giám thị kiểm duyệt. Ông Quế sáng tác vở “Lương Sơn Bá - Chúc Anh
Đài”. Sau Cải cách một thời gian, ông Quế được ra tù, nhưng ốm yếu lắm vì mắc
bệnh kiết lị nặng. Chẳng được bao lâu, ông Quế chết. Nhà ông vẫn nghèo như trước.
Con cái ít học vì bố bận đi hoạt động cách mạng, lại vướng thành phần phản động
do cha làm Bí thư Quốc dân Đảng nên càng khốn khổ. Thành ra những ai kia được
đổi đời, riêng nhà họ Đỗ không biết còn khổ đến đời kiếp nào!
Câu chuyện
ông Quế và gia đình ông làm tôi xúc động lặng người đi. Ông Trịnh Đình Thai có
lẽ cũng xót cho cảnh ngộ của bạn, vì con cái nhà ông Thai đều thành đạt. Anh
con trai đầu là Trịnh Đình Hưng có thời là Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá,
sau làm Giám đốc Công ty vàng bạc đá quý ở Hà Nội. Dòng họ Trịnh Đình này là
dòng dõi Trạng Nguyên Trịnh Huệ, vị Trạng Nguyên cuối cùng của chế độ phong
kiến Việt Nam.
Ông Thai đối
với tôi là người quen biết cùng huyện, có mối quan hệ gắn bó, đã thành đôi bạn
vong niên tương đắc. Nhiều lần tôi bàn với ông khôi phục nhà thờ Trạng nguyên
Trịnh Huệ, nhưng chưa được. Huyện Quảng Xương từng nhờ tôi tổ chức nội dung Hội
thảo Núi Voi, nên tôi biết nguyên nhân chính do hậu duệ Trịnh Quốc Bảo là con
nuôi đã bán mất ngôi nhà thờ cổ, chỉ còn lại bức đại tự bằng đá khắc ba chữ
“Trạng nguyên từ”, cộng thêm vấn đề đất đai thừa kế, con cái ông Bảo có nhiều ý
kiến gây khó khăn.
Ông Thai
từng ngỏ ý muốn tôi tìm cách công bố vở kịch “Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài” cho
ông Đỗ Đan Quế, nhưng tôi thấy khó. Tôi chỉ gặp ông Quế một lần tại trụ sở sơ
tán của UBHCKC huyện Quảng Xương, khi ông đương chức , đương quyền. Khó không
phải vì ấn tượng ban đầu không tốt với ông Quế, mà lí do chính là chất lượng
kịch bản kém quá. Tôi hiểu tâm sự người viết muốn mượn mối tình chung thuỷ của
Chúc Anh Đài đối với Lương Sơn Bá để nói lên tấm lòng mình đối với Đảng, trọn
đời thuỷ chung như nhất. Nhưng nội dung vở không phải sơ lược, mà hết sức sơ
sài. Hồi ấy tôi làm biên tập tạp chí Văn nghệ Thanh Hoá của Hội văn học Nghệ
thuật Thanh Hoá, rất muốn sửa chữa, bổ sung, nâng cao theo đề nghị của ông Thai
nhưng không thể được.
Trở lại câu
chuyện. Hôm ấy, sau khi Chủ tịch Đỗ Đan Quế đi khỏi, có hai ông người dong dỏng
cao, đeo kính cận, quần áo tươm tất, dáng vẻ trí thức đến. Một ông Thẩm phán Toà
án Tỉnh, một ông Thẩm phán Toà án Huyện. Thỉnh thoảng họ trao đổi với nhau bằng
tiếng Pháp. Có lẽ trước đây hai ông học trường Luật. Tuổi tác các vị trong
khoảng từ bốn đến năm mươi. Họ vặn hỏi tôi về súng đạn. Tôi trả lời không biết.
Vì thực tình tôi chưa từng nghe ai nói về súng đạn.
Ông Thẩm
phán Tỉnh đập bàn quát: “Nói láo! Cha mày và chú mày đã khai nhận có súng đạn
mà mày còn dám chối!”.
Ông Thẩm
phán Huyện gườm gườm nhìn tôi: “Phải! Chúng mày chuẩn bị nổi dậy cướp chính
quyền cách mạng, tất phải có súng đạn! Nếu không có, sao cha, chú mày lại thú
nhận có súng đạn đang cất giấu ở nhà?”
Tôi lúc ấy
ngây thơ và ngu dại, tưởng cha, chú mình đã thú nhận rồi thật, nhưng quả tình
mình không biết thì biết trả lời sao! Tôi sợ tái mặt, lúng túng.
Vị quan Toà
tỉnh hạ giọng gợi ý: “Hay là thằng nào đến mang đi rồi?”
Tôi sợ hãi,
lúng túng thật sự, run rẩy, lắp bắp nói: “Tôi không thấy..ai đến, hay là họ đến
mà tôi không biết!”
Ông Thẩm
phán Huyện gật đầu một cái: “Thế là mày đã khai nhận có súng đạn nhưng không
biết ai đến lấy mất!” Tôi giật nảy mình, càng run sợ không nói nên lời!
Ông Thẩm
phán Tỉnh dỗ: “Cứ nói tên ai đó ra, Toà phán xử rất công minh, sẽ thả cho mày
về ngay với mẹ mày!”
Phải một lúc
cố trấn tĩnh, tôi mới nói nổi: “Tôi không nhớ...đã thấy ai...”.
Ông Thẩm
phán Huyện trợn mắt: “Mày nói quẩn nói quanh để đánh lừa Toà hả? Cha con mày
muốn chết chung một hốc với hai thằng sư hổ mang Tuệ Quang, Tuệ Chiếu!”. Tôi
cúi đầu, nước mắt chảy ra giàn giụa.
Ông Thẩm phán
Tỉnh lại gợi ý: “Thằng nào hay thậm thụt ra vào nhà mày thì đích thị là nó!
Hoặc mày khả nghi kẻ nào cũng được! Cứ nói, đừng sợ!”
Tôi nghĩ
không ra ai. Muốn nói bừa một cái tên nào đó cho xong, nhưng đầu óc tôi sao tối
tăm mù mịt, không còn biết ai là đồng bọn với Tuệ Quang, Tuệ Chiếu để cung xưng
với toà. Tôi mà cũng bị bắt đi tù nữa thì mẹ tôi chết mất!
Đầu óc tôi
bỗng vụt sáng lên một người cũng ở chùa, đầu tóc trọc lóc, mặt mũi xấu xí, có
lần đến nhà tôi nói chuyện với bố tôi về sư Tuệ Quang, Tuệ Chiếu. Tuệ Quang tôi
mới nghe lần đầu. Còn Tuệ Chiếu tôi đọc báo Đuốc Tuệ cũ (xuất bản vào khoảng
1942, 1943) sở dĩ tôi nhớ được, vì ông sang Lào, nhà vua cho ngồi ngai vàng để
thuyết pháp...
(còn nữa)
HTP/10/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét