Cây đa đầu làng Đoài Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN PHỔ
(Hồi ký viết lúc hoàng hôn)
Nhà ông Tộc trưởng ở đầu
làng, trên khu đất rộng thênh thang do chính cụ Tổ Bèo (Bìu) lựa chọn. Vây bọc
chung quanh rất nhiều cồn luỹ. Họ hàng phát triển quây quần ngày càng đông. Ông
Tộc bảo cụ Tổ tôi: "Nhà tau ở đất ni
đẹp nhất làng, giờ thời thế loạn lạc, thấy ông Tộc có máu mặt, tưởng béo mỡ
lắm, đứa gian phi mắt la mày lét dòm ngó, rình mò. Nay cho vợ chồng mi ra ở cồn
tre đầu ngõ, nghe thấy có động đạt chi thì đánh mõ báo hiệu, tau ở trong ni sẽ
liệu cách"...
Cụ Tổ tôi được giao tận tay chiếc mõ gốc tre già cực lớn,
tiếng kêu to vang chỉ thua mõ làng; một con dao phát sắc bén (dao này là dụng
cụ phát cỏ rậm và rạ sác ngoài đồng); một cây giáo sào dài bằng tre ngọn vót
nhọn bịt sắt. Đó là hai thứ khí giới, đánh gần có dao phát lia một nhát đứt cổ;
đánh xa là cây giáo sào, nếu khoẻ tay, rèn luyện tốt phóng trúng mục tiêu xa đến
năm chục thước ta...
Cụ Tổ tôi sinh hạ 5 con trai, tất cả đều làm con ăn đứa ở
nhà ông trưởng họ Lê, tất cả đều lập gia đình riêng trong cảnh tôi tớ bần hàn.
Do bị đói khát, ốm đau, bệnh tật, năm người con chết hai còn ba. "Của đau
con xót", cụ Tổ tôi buồn thêm cảnh ngụ cư, bị cả làng khinh bỉ, 60 tuổi
vẫn phải đầu đội vai vác việc quan, việc làng, ai cũng gọi mình là
"thằng". Cứ một "thằng ngụ cư" hai "thằng ngụ
cư", mặc dù mình có tên có họ hẳn hoi! Cụ Tổ nghĩ cách tìm cho con cái một
nghề, "nhất nghệ tinh, nhất thân vinh". Con Cả, cụ cho hầu ông phó
mộc, thứ Hai cho theo ông phó may, thứ Ba cho ở với bác thợ sơn (Những nghề này
ba chi họ Hoàng còn truyền nối đến trước 1945).
Riêng người con Cả được cụ Tổ tôi đặc biệt ưu tiên cho học
chữ Nho với thầy đồ trong làng, dẫu đã cao lớn sừng sững mới bắt đầu ê a Tam tự
kinh. Nhờ thời gian xách cưa đục hầu điếu đóm ông phó mộc, chú "phó
nhỏ" con trai đầu cụ Tổ tôi, bản tính thông minh chăm chỉ, cũng đã học mót
thêm được chút ít ở ông Phó cả già vui tính, có cái "sách" gọi là
"Tứ tự kinh giắt lưng". Ông thường ngâm nga: "Xuống sác mò cua-chữ nhi là mà, Trèo lên mái nhà-là con ve ve...con
ve kêu gia ấy mà!". Không có tiền tết lễ thầy đồ, con trai đầu cụ Tổ
tôi học hết "Tam tự kinh", đành phải xin thôi, tiếp tục làm "phó
nhỏ" vác đục cưa theo hầu ông phó cả.
Một lần chùa Tuyết Phong tiểu tu, gọi thợ mộc, con trai đầu
cụ Tổ tôi cũng được đi theo học nghề. Một hôm, ông sư nhà chùa thấy con trai cụ
Tổ tôi vừa lau chùi câu đối trên cột, vừa bập bẹ tập đọc, gật đầu nói:
"Muốn học thêm chữ thì ở lại bản tự làm tiểu quét bệ, thỉnh
chuông...".
Về sau mới biết ông sư ấy là Đạo sĩ Pháp Đăng quê ngoài Bắc
vào Thanh truyền đạo ở chùa Tuyết Phong, một trung tâm đạo tràng của đạo Đông.
Đạo này kế thừa và phát triển môn phái Pháp Lục của đạo Lão Việt Nam thời Lý
Trần chủ trương Phật-Lão hoà đồng, sư tăng cũng là đạo sĩ. Đạo sĩ khác sư tăng
ở chỗ nhập thế, không xuất thế, có gia đình, vợ con như người trần tục. Người
đắc đạo được gọi là Pháp sư, đặt pháp danh, lập tĩnh thờ riêng, thờ cả Phật Tổ
và Lão Quân. Đạo Đông lại chia ra hai chi phái: Đạo Nội, Đạo Ngoại. Gia đình
tôi suốt 4 đời, cha truyền con nối, từ kỉnh cố đến ông, bố tôi đều làm pháp sư
đạo Nội, thầy pháp kiêm thầy thuốc. Riêng người chú bố tôi (em trai ông nội
tôi) đi theo chi phái Đạo Ngoại, chủ yếu hành đạo chuyên dùng ấn quyết, bùa chú
và các phép thuật khác như: Lội hoả thang, leo thang dao bầu, xiên lềnh, trún
bùa, đánh phản ác,v.v...(Ông chú chết lúc chưa đến bốn mươi, gia đình bị tuyệt
tự). Vấn đề đạo Nội, đạo Ngoại rất phức tạp, tôi sẽ nói trong những đoạn sau.
Mục đích cụ Tổ tôi như vậy đã thành công. Từ đời kỉnh tôi
(chú tiểu chùa Tuyết Phong) đã được làm thầy: thầy pháp kiêm thầy cúng, nhân
dân trong làng ngoài xã, ai cũng phải gọi
là "thầy", mặc dù vẫn là kẻ ngụ cư, làng có thể đuổi đi bất cứ
lúc nào, vì bất cứ lý do gì. Những kẻ xấu bụng đôi khi hăm doạ, mạt sát, nói ra
miệng, còn làng tuyệt đối không, bởi các cụ nhà tôi luôn luôn tôn trọng lệ làng
phép nước, và ai cũng thấy trong làng mình có thầy pháp, cả thầy thuốc, khi cần
có thể mời ngay, rất tiện lợi.
Trên đây là tiểu sử cụ Tổ tôi, mà bố tôi được nghe ông nội
tôi kể, ông nội tôi lại nghe cố nội tôi, ông cố tôi lại nghe ông kỉnh tôi, ông
kỉnh tôi được chính cụ Tổ tôi nói cho biết...
Cụ cố tôi, Hoàng Hữu V. lúc nhỏ đi ở cho một gia đình giàu
có, họ Lê ở làng Đông, giáp làng tôi. Ông tổ họ này làm võ quan Vệ uý triều Lê
Cảnh Hưng, một ngày đánh giặc thắng liền hai trận, được ban hai đạo sắc (hiện
còn) phong thưởng Thiên hộ. Không rõ vinh phong, hay thực phong mà gia tư trở
thành một điền chủ, ruộng đất khắp xứ, trâu bò đầy chuồng, tôi tớ chật cửa. Sau
nhà quan Vệ uý giảm sút dần vì phải chia năm sẻ bảy cho con cháu. Đến đời cụ Lê
công may còn giữ được vài ba chục mẫu ruộng, mươi con trâu, bò. Cố tôi trước đi
ở, sau cụ Lê công quý mến gả con gái cho, được ở rể luôn trong nhà. Qua 3 năm
làm rể, đã sinh một trai (tức ông nội tôi). Cụ Lê công cho con gái cùng chồng
con 5 sào cuộng, một con bò mang về nhà chồng. Từ chỗ không tấc đất cắm dùi,
bỗng nhiên gia đình có ruộng, có bò, ai cũng mừng lắm, cứ ngỡ nằm mơ! Nhờ số
của hồi môn làm vốn liếng vô cùng quan trọng này, đời ông nội tôi phát triển
lên 5 mẫu ruộng, một con trâu. Ông bà nội có hai trai (bố tôi, chú tôi), ba con
gái gả chồng trong xã. Theo cách chia ruộng ngày xưa: Con cả phần nhiều, con
thứ ít hơn, các o chỉ tính sào trên đầu ngón tay làm "của ra ở
riêng". Bố tôi được hơn hai mẫu, chú tôi một mẫu năm, các o mỗi người vài
sào để "nhớ" giỗ tết (không gọi của hồi môn).
Chú Thuyết tôi lấy thím A. ở miếng đất sát ngay cạnh nhà
tôi, với một căn nhà luồng mái kè, sinh hạ hai con gái. Vì năm 60 tuổi ông nội
tôi mất (1946), nên bà nội tôi giao thừa kế cho bố mẹ tôi, rồi ở với chú, thím
tôi. Chú tôi đi tù cùng vụ án với bố tôi. Năm 1954, sau Hiệp định Đình chiến
vẫn ở trong trại giam. Năm 1955, vì mắc bệnh ngã nước, chú tôi mới được tha về.
Nhưng cũng như gia đình tôi, thành phần phản động không thể thoát cái án
"treo niêu"! Vì không có tiền thuốc thang, không cả nắm gạo nấu cháo,
nên chú Thuyết về được vài tháng thì chết!
Mấy năm sau, thím tôi tái giá với ông từ Nghệ người xóm
trại Cồn và đem theo con gái thứ hai. Con gái cả (bị chứng viêm tai nên nghe
kém), gả cho Lê Văn Nhì (thành phần bần nông) người xóm trại Bái Cốc. Lê Văn
Nhì ở rể chịu trách nhiệm chăm sóc bà nội tôi và thờ cúng bố vợ (chú ruột tôi)
Khi còn sống, bà nội tôi đã giao tất cả gia sản nghèo cho cháu, rồi hai cháu
Nhì-Ất lại trao lại cho con trai Lê Văn Nhất làm chủ sở hữu đất đai nhà cửa (có
giấy chứng nhận) đề phòng sau này xảy ra chuyện không hay. Lê Văn Nhất thừa
hưởng cơ nghiệp vốn nghèo khó của cha mẹ để lại, kèm theo đứa em trai Lê Văn
Tâm tàn tật (không biết lấy vợ), cuộc sống gia đình ngày càng bần cùng. Suốt 7
năm trời, Lê Văn Nhất mang vợ con vào Biên Hoà làm thuê, năm 2015 mới trở về.
Trong thời gian Nhất đi vắng, cậu em tàn tật (Lê Văn Tâm) do gia đình tôi trông
nom. Hằng năm cháu Nhất vẫn dành dụm tiền gửi về làm giỗ tết đầy đủ. Chú tôi ở
dưới suối vàng hẳn cũng được an ủi, vì các cháu nghèo khó mà hiếu nghĩa, nhưng vẫn hàm oan cái án phản động 8 năm tù hồi còn ở dương gian, không cách gì giải toả!
Viết đến đây, tôi bồi hồi nhớ lại mình thời nhỏ được người
chú ruột (chú Thuyết) đặc biệt chăm sóc chuyện học hành. Chính chú Thuyết đã
bàn với bố mẹ tôi cho tôi lên huyện Nông Cống học lớp đệ nhị trường tư thục
trung học Na Sơn. Chuyện tiền gao khó khăn, chú tôi tìm cách giải quyết. (Lớp
đệ nhất tôi học trường Trung học tư thục Hoài Văn cách nhà 6km, do nhà văn Trần
Thanh Mại làm Hiệu trưởng. Được một năm, trường chuyển ra huyện Hoằng Hoá, quá
xa nên tôi phải nghỉ học).
Phải nói thật rằng bố tôi không thiết tha lắm việc học của tôi, chỉ vì một lý do: Lúc tôi mới sinh, các cụ đã "chấm lá số tử vi" cho tôi, thấy "không có số công danh"! Tôi chỉ học đến thế là đủ. Thời thế đổi thay, tôi không thể nối nghiệp làm thầy (pháp sư kiêm lương y), thì ở nhà lấy vợ sinh con, vài mẫu ruộng với bốn cẳng con bò, không giàu cũng đủ ăn. Sự thực, nhà không còn được hai mẫu ruộng, vì trước năm 1945, bố tôi thích chơi cờ bạc, mỗi khi thua, bán đi dăm bảy thước, một sào. Bố tôi còn vay cả tiền của nhà ông từ Đệp giàu có trong làng, nợ nần cứ "lâm tí lâm sửu" không biết đến bao nhiêu mà tính! Mẹ tôi trả nợ được một ít, còn lại nhờ Cách mạng Tháng Tám xoá sạch.
Phải nói thật rằng bố tôi không thiết tha lắm việc học của tôi, chỉ vì một lý do: Lúc tôi mới sinh, các cụ đã "chấm lá số tử vi" cho tôi, thấy "không có số công danh"! Tôi chỉ học đến thế là đủ. Thời thế đổi thay, tôi không thể nối nghiệp làm thầy (pháp sư kiêm lương y), thì ở nhà lấy vợ sinh con, vài mẫu ruộng với bốn cẳng con bò, không giàu cũng đủ ăn. Sự thực, nhà không còn được hai mẫu ruộng, vì trước năm 1945, bố tôi thích chơi cờ bạc, mỗi khi thua, bán đi dăm bảy thước, một sào. Bố tôi còn vay cả tiền của nhà ông từ Đệp giàu có trong làng, nợ nần cứ "lâm tí lâm sửu" không biết đến bao nhiêu mà tính! Mẹ tôi trả nợ được một ít, còn lại nhờ Cách mạng Tháng Tám xoá sạch.
Được học trường Tư thục Trung học Na Sơn, trí óc tôi mở
mang thêm nhiều. Bấy giờ phố chợ Cầu Quan đông vui như một đô thị, chỉ cách
trường chừng mấy cây số. Đặc biệt Cầu Quan có hai hiệu sách đều của người ngoài
Bắc tản cư vào.
Hiệu sách tiếng Pháp, bán toàn sách cũ, nhiều quyển dày
cộp. Với vốn liếng Pháp văn quá ít ỏi khiến tôi không thể đọc, chỉ đứng ngoài cửa
nhìn vào bằng con mắt ngưỡng mộ. Nghe nói chủ hiệu sách này là ông Phùng Quang
Nhiên, Hiệu trưởng trường Trung học Tư thục Quang Trung.
Hiệu sách thứ hai tôi năng lui tới, toàn sách Quốc Ngữ, đủ
loại mới cũ, mỗi thứ bày ra một tập. Tiểu thuyết của NXB Đời Nay, báo Tiểu
thuyết Thứ Bảy, báo Đuốc Tuệ, tạp chí Viên Âm, Từ Âm, tạp chí Tri Tân, có cả
cuốn Phê bình văn học của Kiều Thanh Quế,v.v...Sách báo mới (xuất bản trong
thời kỳ kháng chiến) Văn chương bình dân
của Trương Tửu, Quyền sống con người
phương Tây của Đặng Thai Mai, Những
nguyên lý sơ giản về triết học của Goóc-giơ Pô-lit-zê (BS Đỗ Đạo Tiềm
dịch), Tìm hiểu chiến tranh của
Trường Sơn, Tài liệu nghiên cứu chủ nghĩa Mác của Phân hội nghiên cứu chủ nghĩa
Mác Liên khu IV, kịch Màn cửa vàng
của Huyền Kiêu,v.v...
Đọc hết tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, tôi đọc sang các
tác giả khác, như Chiều của Nguyễn
Xuân Huy, Đứa con của Đỗ Đức Thu,
loại sách đường rừng của Lan Khai, trinh thám của Thế Lữ, kinh dị của Phạm Cao
Củng,...tôi thấy dần dà nhàm chán, chuyển sang loại sách nghiên cứu, mượn được
thứ gì, xem thứ ấy, dù hiểu hay không hiểu. Không có tiền mua sách, tôi mượn
của bạn bè, người thân quen.
Nhà sư Thích Trí Độ tản cư ở chùa Phúc Quả gần Cầu Quan, không rõ chức vụ gì, có rất nhiều sách (sau mới biết cụ làm đại biểu Quốc hội nhiều khoá). Tôi và một số anh em ban học, ngày chủ nhật rủ nhau đến chùa chơi xem sách tại chỗ. Cụ đang dịch kinh Lăng Nghiêm. Các cụ nhà tôi nói kinh này khó lắm, dùng trong đàn tràng, các cụ xưa cũng chỉ dám tụng đến kinh Pháp hoa, kinh Dược sư, kinh Bát nhã...Cụ Trí Độ đã chứng tỏ trình độ giáo lý uyên thâm ở tạp chí Từ Bi Âm (Sài Gòn) in rất nhất nhiều bản kinh Phật do cụ dịch. Có lẽ bởi trình độ Quốc văn của cụ bị hạn chế, cách diễn đạt nhiều câu không được sáng tỏ khiến người đọc dễ chán.
Nhà sư Thích Trí Độ tản cư ở chùa Phúc Quả gần Cầu Quan, không rõ chức vụ gì, có rất nhiều sách (sau mới biết cụ làm đại biểu Quốc hội nhiều khoá). Tôi và một số anh em ban học, ngày chủ nhật rủ nhau đến chùa chơi xem sách tại chỗ. Cụ đang dịch kinh Lăng Nghiêm. Các cụ nhà tôi nói kinh này khó lắm, dùng trong đàn tràng, các cụ xưa cũng chỉ dám tụng đến kinh Pháp hoa, kinh Dược sư, kinh Bát nhã...Cụ Trí Độ đã chứng tỏ trình độ giáo lý uyên thâm ở tạp chí Từ Bi Âm (Sài Gòn) in rất nhất nhiều bản kinh Phật do cụ dịch. Có lẽ bởi trình độ Quốc văn của cụ bị hạn chế, cách diễn đạt nhiều câu không được sáng tỏ khiến người đọc dễ chán.
Tôi trọ học ở nhà bà Thoả, làng Cầu Nhân, mình tôi ba gian nhà trên vắng vẻ, tha hồ đọc
sách. Tôi học văn với thầy Nguyễn Trác. Thầy hay nhắc đến Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân, và luôn ca ngợi Chiếc lư
đồng mắt cua, tôi chưa được đọc bao giờ, vì không thấy ai có để hỏi mượn.
Thầy thường nói: Ba bốn năm sau, các anh sẽ biết tôi là ai! Thầy đưa ra lối
hành văn rất ngắn gọn. Ví dụ: Bác nông
dân xắn quần lên lội xuống ruộng, thầy bảo thừa chữ "lên", bởi đã
xắn quần, tất phải "lên" rồi, có ai xắn quần xuống bao giờ?
Năm đệ nhất, trường Hoài Văn, tôi học thầy Trần Thanh Địch
(Nhà văn), bài văn thường được 11, 12 điểm (thang điểm 20), năm đệ nhị, trường
Na Sơn, thầy Nguyễn Trác chỉ cho điểm 6/20, có bài tụt xuống mức thảm hại
03/20! Nhưng tôi không hề chán môn Văn, vẫn thích ngang môn toán. Thầy giáo dạy
Toán trẻ lắm, con thầy Phan Thế Roanh
dạy môn Vật lý, cháu cụ Phan Mạnh Danh, tác giả tập thơ chữ Hán Bút hoa thi thảo, được đương thời mến mộ.
Tôi rất kính mến thầy Nguyễn Trác. Nghe nói hoà bình, thầy
chuyển về Hà Nội dạy học. Tôi chú ý tìm đọc trước tác của thầy, nhưng không
thấy. Hình như thầy viết phần Giới thiệu cho quyển Truyện Phan Trần khảo thích?
Không rõ danh tính Nguyễn Trác, ngoài thầy ra còn có ai không?
HTP/8/2016
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét