Putin gù Kim Chính Ân cùng tham chiến ở Ukraine. Ảnh minh hoạ: ST |
Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên):
-“GẬT GÙ đgt. Cúi nhẹ đầu rồi ngẩng lên nhiều lần nối tiếp nhau, biểu thị thái độ đồng tình, tán thưởng. Gật gù khen hay. “Lí cựu, phó lý, thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy nhặng xanh gật gù nhấc chén lên lại đặt chén xuống” (Ngô Tất Tố)”.
Thực ra, gật
gù là từ ghép đẳng lập [đồng đại]: gật
là cúi đầu xuống rồi ngửng lên, biểu thị đồng ý; còn gù nghĩa là gật đầu xuống, ngửng đầu lên liên tục (gật gật) để ra
ám hiệu thúc giục, rủ rê ai đó. Tiếng Thanh Hoá phát âm “gù” là “gầu”. Ví dụ: Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan vợ húp
gật gầu khen ngon (Cdao); Hai đứa lại
gầu nhau đi chơi rồi (tiếng cổ = gầu
chắc đi chơi).[*]
Khi nói chim cu gù người ta hình dung ra tiếng “gù” trong họng con chim, đồng thời
cổ và đầu vươn lên, rụt xuống liên tục như tán tỉnh, thuyết phục. Nhiều cuốn từ
điển hãy còn ghi nhận “gù” là một từ độc lập trong hành chức:
-Từ
điển tiếng Nghệ: “gù: rủ rê - gù bạn đi chơi”.
-Từ điển Lê Văn Đức: “gù • (B) ghè, ve, tán-tỉnh, dùng lời ngọt-dịu, duyên-dáng để o mèo: Gù con gái người ta”.
Như vậy, xét theo nghĩa của từng thành tố, thì gật
gù là từ ghép đẳng lập, không phải từ láy.
Tham khảo: Thanh Hoá có câu ca Râu
tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp gật gầu khen ngon. Trong thực tế thấy xuất hiện dị bản “Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon”.
Vậy gật gầu hay gật đầu, mới là bản chính?
Râu tôm và ruột bầu (ruột quả
bí ngô; Thanh Hóa gọi là bầu lào) là
những thứ bỏ đi, vì ăn rất vô vị. Nhưng một khi vợ chồng tâm đầu ý hợp, yêu thương nhau, thì vẫn
“chồng chan vợi húp”, một cách hào hứng, ngon lành. Họ là đôi vợ chồng dù thiếu
thốn nhưng rất hạnh phúc! Cái sự “gật gầu khen ngon” thể hiện sự đồng điệu, tâm đắc
của cả hai, trong khi “gật đầu” không thể nói lên điều đó.
HTC/9/2022
(Trích “Viết lúc nông nhàn”, phần “Phê bình khảo cứu Từ điển từ láy tiếng Việt” – chưa xuất bản).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét