HOÀNG TUẤN CÔNGCấy đêm vụ mùa ở Thanh Hoá
Ảnh: báo Thanh Niên
Trong Từ điển tục ngữ Việt (NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh - 2010) có một số câu Nguyễn Đức Dương thu thập, nhưng xếp vào diện “chưa rõ nghĩa”. Cách làm này thể hiện sự thận trọng, và cũng có cái hay là lưu ý cho độc giả và các nhà nghiên cứu về những vấn đề còn bỏ ngỏ. Sau đây chúng tôi xin đưa ra cách giải thích về những câu “chưa rõ nghĩa” này (phần gạch đầu dòng sau số mục, đặt trong ngoặc kép là nguyên văn của Từ điển tục ngữ Việt).
8-“Cấy tháng sáu máu rồng [?]
Chưa rõ nghĩa”.
Tháng sáu âm lịch, nắng
mưa xen kẽ, cấy được vào lúc này là tốt nhất. “Máu rồng” ở đây chỉ sự quý giá của nước mưa tháng sáu (Mưa tháng sáu máu rồng); Phân gio không bằng cấy mò tháng sáu. “Cấy mò” ở đây có nghĩa cấy rốn, cấy sớm vào
ban đêm, cấy sáng trăng… vừa tránh nắng nóng, gió lào cho người và lúa, vừa kịp
thời vụ, tốt hơn cả bón phân tro.
Tham khảo: nhiều người giải thích “cấy
mò” trong câu Phân gio không bằng cấy
mò tháng sáu, nghĩa là cấy trong điều kiện ruộng ngập nước, đến mức phải mò
mẫm mà cắm cây mạ (Từ điển tục ngữ Việt của Nguyễn Đức Dương cũng giải thích như vậy.).
Tuy nhiên, xét về khoa học cũng như kinh nghiệm dân gian, thì cấy mà ruộng ngập
tới mức nước lút cả cây mạ là không tốt (Lưu ý, khác với câu Phân gio không bằng no nước. Bởi “no” ở đây là “no đủ”, thoả mãn về điều
kiện nước tưới, chứ không phải tình trạng ngập úng). Hơn nữa, tháng sáu chủ yếu
là nắng nóng. Những cơn mưa lớn, kéo dài tới mức gây ngập úng đồng ruộng không
phải là đặc trưng của thời tiết giai đoạn này.
9-“Chày cháy [?] trôi sông
ngư ông ngỡ cá Chưa rõ nghĩa”.
“Chày cháy” ở đây là
cái chày bằng gỗ, hoặc khúc củi hình dáng cái chày bị cháy dở, người ta vứt đi,
trôi vật vờ dưới sông, nhưng ngư ông lại trông lầm, ngỡ là con cá to. Tục ngữ
ám chỉ, chế giễu sự lầm lẫn, tưởng bở, thấy vật tầm thường, vô dụng lại tưởng vớ
được của quý.
10-“Cơm chưa ăn, gạo còn đó
Chưa rõ nghĩa”.
Ở vần C, chính
Nguyễn Đức Dương đã thu thập và giải nghĩa câu “Chưa làm giỗ nếp hãy còn đó: Chưa
làm đám giỗ thì nếp hãy còn nguyên đó (chứ có bị hao hụt chút nào đâu mà lo).
Hay dùng để chê những kẻ quá lo xa, tới độ chưa hề dùng tới mà đã lo sẽ bị hao
hụt mất”.
Như vậy, Chưa
làm giỗ nếp hãy còn đó, là một dị
bản đồng nghĩa hoàn toàn với câu Cơm chưa ăn, gạo còn đó: chưa
sử dụng thì hãy còn nguyên đó, không có gì phải băn khoăn lo lắng. Còn có một
số dị bản Giỗ chưa làm, lợn còn đó; Giò chưa làm heo còn
đó. Tất cả đều không có gì
khó hiểu.
11-“Cú nói có; vọ nói không
Chưa rõ nghĩa”.
“Cú” và “vọ” đều chỉ
loài chim cú vọ. “Cú nói có, vọ nói không”,
ý chỉ sự đôi co, cãi cọ, người bảo rằng có chuyện đó, người lại bảo rằng không,
mỗi người mỗi phách, chẳng biết tin vào đâu, chẳng biết phân xử thế nào. Đại Nam quấc âm tự vị giảng: “Cú nói
có, vọ nói không: Chối cãi không phù tiếng
nói”.
12-“Đã trót thì phải trét
Chưa rõ nghĩa”.
Đây là một câu thông
dụng trong đời sống. “Trót” nghĩa là trót
làm, “trét” có nghĩa làm cho xong: đã trót làm thì dù có khó khăn hay
không còn hứng thú nữa cũng phải/đành
phải cố làm cho xong.
13-“Đàn bà mới hay giết chồng;
chứ đàn ông ít ai lại nỡ giết vợ Chưa
rõ nghĩa”.
Câu này có một số dị bản
như: “Gái giết chồng, đàn
ông ai giết vợ”; “Gái giết
chồng, đàn ông ai nỡ giết vợ”; “Gái giết chồng chứ, đàn
ông không ai giết vợ”.
Câu tục ngữ phản ánh một
thực tế lịch sử. Xưa kia trong chế độ đa
thê, đàn ông “năm thê bảy thiếp”. Họ không vì có mới mà nới cũ, hoặc
“có mới phải nới cũ”, mà là được phép “Năm con năm nhớ, mười vợ mười thương”!
Việc có đồng ý cho vợ chia tay hay không, hầu
như hoàn toàn phụ thuộc vào quyền của người đàn ông. Trong Mô tả Vương quốc Đàng Ngoài, Samuel
Baron cho biết như sau: “Luật pháp ở đây cho phép đàn ông ly dị vợ
nhưng phụ nữ thì không được phép ly dị chồng, cũng khó mà ly thân, trừ khi bà
ta xuất thân từ gia đình có thế lực và có thể dùng thế lực đó để
can thiệp thì mới đuổi được người chồng đi”.
Trong khi đó, người chồng lại có thể rẫy vợ một
cách dễ dàng, một khi cô ta phạm vào các lỗi “thất xuất”, “nghĩa tuyệt”, đôi
khi rất cảm tính, như “đa ngôn” (lắm lời); “đố kị” (ghen
tuông),v.v..
Theo Điều
108, Luật Gia Long, thì phía người vợ chỉ được phép cải giá sau thời hạn 3
năm, nếu như người chồng vô cớ mà bỏ nhà ra đi. Hoặc giả người vợ trình với quan
trong trường hợp người chồng phạm vào các lỗi “nghĩa tuyệt” như: bán vợ làm nô
lệ; bán vợ cho người khác làm vợ; cho thuê hay cầm cố vợ; đánh đập vợ mang
thương tích nặng; đánh đập ông bà cha mẹ vợ,v.v..., thì mới được quan xét cho
li dị.
Trong khi nhiều vụ án
lại cho thấy, đàn bà ngoại tình, hoặc bị áp bức, thường thông đồng với kẻ gian
phu lập mưu giết chồng để được tự do đi lại với “tình lang”, hoặc “tự giải
phóng” mình. Bởi vậy, Luật Gia
Long có hẳn điều 254 quy định về “Tội thông gian và giết chồng, vợ cả”
như sau: “phàm thê thiếp nhân vì việc thông gian mà đồng mưu với gian phu
trong việc giết chết chồng của mình thì bị xử tội lăng trì, gian phu thì bị xử
trảm giam hậu.” (bị tống giam sau đó xử trảm-HTC).
Không thấy có điều luật quy định riêng về tội người
chồng thông gian, hay gian dâm với người đàn bà khác, mà chỉ quy định đối với
những trường hợp trái thuần phong mỹ tục, như: Tội người thân thuộc
thông gian; Tội tăng đạo, tăng nhân thông gian; Tội quan chức phạm về thông
gian; Tội thông gian trái đẳng cấp…
Cũng không thấy luật quy định về việc xử tội
người chồng vì thông gian mà giết vợ. Điều này không có nghĩa luật pháp thiên
vị, chỉ xử nặng tay với đàn bà, mà chứng tỏ chuyện đàn ông giết vợ để được sống
với người tình, hoặc “tự giải phóng” mình, hầu như không xảy ra trong thực tế,
nên nhà làm luật đã không có mục quy định riêng về tội này.
Dĩ nhiên, trong trường hợp vì lí do nào đó mà
người đàn ông giết vợ, sẽ bị xử vào tội “giết người”, hoặc tội “chồng
đánh vợ đến chết”. Ví dụ Lệ 7 thuộc Điều
254 Luật Gia Long.
(còn tiếp)
HTC (trích bản thảo “Viết lúc
nông nhàn” sắp xuất bản)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét