Bài trên Tuổi Trẻ (cuối tuần) |
ĐOÀN LÊ GIANG
(Lưu Tuổi trẻ Cuối tuần)
TTCT 13/9/2017- Giáo sư Nguyễn
Lân là một tên tuổi lớn trong làng chữ nghĩa, nhất là về phương diện từ điển.
Đọc lý lịch của ông, thấy những nơi ông từng học, từng làm việc, ai cũng phải kiêng nể: tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (đồng môn với các giáo sư Đặng Thai Mai, Hoàng Ngọc Phách, Ca Văn Thỉnh...), từng giảng dạy văn sử ở Trường Thăng Long, Chu Văn An (Hà Nội), Quốc Học (Huế), từng học ở khu học xá Quảng Tây (Trung Quốc), từng dạy tại Đại học Sư phạm Hà Nội từ ngày đầu thành lập, từng được phong là Nhà giáo nhân dân...
Sai sót đã được chỉ ra từ lâu
Các công trình để lại
của ông cũng thật đáng nể: nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ từ năm 1941, tham gia
biên soạn cuốn từ điển tiếng Việt nổi tiếng nhất ở miền Bắc trước 1975: Từ điển tiếng Việt do
giáo sư Văn Tân chủ biên (1967).
Ông là tác giả của
hàng chục cuốn từ điển nổi tiếng: Muốn
đúng chính tả (1949), Từ
điển chính tả phổ thông (1963, viết chung), Từ điển từ và ngữ Hán Việt (1989), Từ điển thành ngữ và tục ngữ
Việt Nam (1989), Từ
điển từ và ngữ Việt Nam (2000)...
Các công trình về giáo dục học và từ điển
tiếng Việt của ông được giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2001.
Thế nhưng ngay từ khi từ điển của giáo sư
Nguyễn Lân ra đời không lâu, đã có phản ứng của giới học thuật.
Trên tạp chí Văn ở TP.HCM
số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11-2000, Huệ Thiên trong bài viết Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt
Nam của Nguyễn Lân, mới ở các vần A, B, C (chiếm 1/5 quyển sách) đã
chỉ ra 117 mục từ sai.
Tiếp đó, Lê Mạnh Chiến chỉ ra 170 sai lầm
trong một cuốn từ điển để đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thế Giới Mới... và
nhiều bài phê bình khác nữa.
Mặc dù đã có một số người vạch ra chỗ sai
cụ thể với số lượng rất lớn như thế, nhưng các nhà xuất bản (NXB) vẫn liên tục
in với số lượng lớn:
Từ
điển từ và ngữ Hán Việt được
NXB TP.HCM in năm 1989, tái bản 1999; NXB Từ Điển Bách Khoa in lại, 2002; NXB
Văn Học tái bản 2003, 2007; Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, xuất bản lần đầu năm 1989, NXB
Khoa Học Xã Hội tái bản năm 1993.
Riêng NXB Văn Học năm
2003 tái bản lần thứ nhất, sau đó liên tục các năm 2014, 2015, 2016, 2017 tái
bản tổng cộng đến gần 10.000 cuốn; Từ
điển từ và ngữ Việt Nam, NXB Tổng Hợp TP.HCM xuất bản lần đầu
năm 2000, tái bản 2006; Muốn
đúng chính tả, Thịnh Đức xuất bản, 1949; NXB Văn Hóa Thông Tin tái
bản 2010, 2012...
Quyển sách Từ điển tiếng Việt của GS.
Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu của Hoàng Tuấn Công sửa chữa
hàng ngàn lỗi trong Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Từ điển từ và
ngữ Việt Nam, Muốn đúng chính tả của giáo sư Nguyễn Lân (NL).
Với mỗi mục từ giải thích sai, Hoàng Tuấn
Công (HTC) đều trưng ra các cách hiểu đúng trong các từ điển uy tín khác, bằng
tiếng Việt cũng như tiếng Hán hay ngoại ngữ khác, rồi biện luận nó.
Xin đưa vài ví dụ dễ thấy nhất và chỉ ở 3
mục A, B, C:
NL: Ái nam, ái nữ. Có cả hai bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ.
HTC: Nếu
theo cách mô tả của giáo sư Nguyễn Lân, có lẽ đây là một ca sinh đôi có “cả hai bộ phận sinh dục ngoài”
của một người nam và một người nữ nhưng chung một cơ thể chăng?
Theo Việt Nam tự điển của
Hội Khai Trí Tiến Đức: “Ái nam. Tiếng gọi đàn ông hay đàn bà
không đủ bộ phận sinh dục. Có khi gọi ái nam, ái nữ, cũng là người bán nam, bán
nữ”.
Từ
điển tiếng Việt của
nhóm Hoàng Phê giải nghĩa: “Ái nam, ái nữ. Có bộ phận sinh dục ngoài không
giống của nam, cũng không giống của nữ”. Như vậy cách “hình dung”
về bộ phận sinh dục người ái nam, ái nữ của soạn giả không đúng và nghe thật
đáng sợ!
NL: Anh hùng nhất khoảnh (khoảnh: thời gian ngắn). Nói người
tự cho mình là hơn cả mọi người trong một thời gian: Ở bến xe có tên lưu manh
tự mình cho là anh hùng nhất khoảnh.
HTC: Chữ “khoảnh” trong câu thành ngữ gốc Hán này tự dạng
là (頃), có nhiều nghĩa: khoảng ruộng 100 mẫu; thoáng chốc, khoảnh khắc... Ở
đây, khoảnh (nghĩa đen = khoảng rộng 100 mẫu) được hiểu là một vùng, một địa
phận, khu vực (chỉ không gian) chứ không phải khoảnh khắc (chỉ thời gian) như
giáo sư lầm tưởng.
Thành ngữ nói kẻ chỉ (dám) xưng hùng xưng
bá, làm mưa làm gió trong một khu vực nhất định. Cái “bến xe” mà tên lưu manh
tự xưng anh hùng trong câu dẫn chứng của giáo sư chính là “nhất khoảnh” (chỉ
không gian) đấy thôi.
NL: Bất chắc. Không chắc nhưng có thể cũng sẽ diễn ra:
Phòng khi bất chắc dụng binh (Tú Mỡ).
HTC: Người Việt chỉ nói không chắc chứ không
dùng kết hợp từ: bất (không) + chắc (chắc chắn) = không chắc. Hơn nữa, soạn giả
đã lẫn lộn giữa bất chắc (từ do tự giáo sư Nguyễn Lân nghĩ ra) có nghĩa không
chắc và bất trắc với nghĩa không lường được trong câu thơ của Tú Mỡ.
Sai sót này xuất phát từ lỗi phát âm không phân biệt “ch” và “tr” dẫn
đến lỗi chính tả, và cuối cùng là lỗi từ vựng của chính người làm từ điển.
NL: Cầm cương nảy mực (cầm cương ngựa và nảy mực lên mặt
gỗ để cưa). Điều khiển và chỉ dẫn những người dưới quyền làm theo: Trong những
năm Hồ Chủ tịch cầm cương nảy mực.
HTC: Nhầm lẫn. Cầm cân chứ không phải “cầm
cương”. Có lẽ giáo sư cho rằng người cầm cương điều khiển để con ngựa rẽ theo ý
muốn, còn người nảy mực nảy lên mặt gỗ để chỉ dẫn thợ mộc cứ thế làm theo?
Thế nhưng người ta
dùng chiếc cân để so sánh với công lý, và nảy mực tàu được ví với cách làm
thẳng thắn, khách quan, không thiên, không lệch (có câu Thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ là
vậy).
Hai vế của thành ngữ đều nói về sự thẳng
thắn, công bằng, không thiên, không lệch, chứ không phải nói về sự dẫn đường
chỉ lối. Cũng nên lưu ý soạn giả: người ta chỉ nảy mực lên mặt gỗ để xẻ (dọc)
cho thẳng. Còn “cưa” (ngang) không ai nảy mực làm gì.
NL: Cử tọa (cử: cất lên; tọa: ngồi). Tất cả
những người dự một buổi họp: Lời tuyên bố đó khiến cử tọa vỗ tay như pháo nổ.
HTC: Ở đây giáo sư giảng sai nghĩa của cả hai từ “cử”
và “tọa”. Cho dù đều có tự dạng là 舉, nhưng
chữ “cử” trong cử tọa nghĩa là hết thảy, tất cả, chứ không phải là “cất lên”.
Ví như cử quốc = cả
nước (Hán Việt tự điển -
Thiều Chửu). Hán Việt
tự điển - Trần Văn Chánh giải nghĩa chữ “cử”: “Cả, khắp, tất cả đều, mọi, hết
thảy mọi người: 舉座 Tất
cả những người dự họp; 舉國歡騰 Khắp
nước tưng bừng”. Thứ
hai, chữ “tọa” (座) đây là chỗ ngồi chứ không phải chữ “tọa”
(坐) là “ngồi”.
Về chính tả, sách giáo sư Nguyễn Lân sai
sơ đẳng quá, không hiểu nổi:
Trỗi dậy, (sai) thành: Chỗi dậy; Rớm máu,
sai thành: Dớm máu; Quyến rũ, sai thành Quyến dũ; Sàm sỡ, sai thành: Xàm xỡ;
Sặc sỡ, sai thành Xặc sỡ; Màu sẫm, sai thành Màu xẫm; Con rạ, sai thành Con dạ;
Xơ cứng, sai thành Sơ cứng; Muỗi như trấu, sai thành Muỗi như chấu; Nõ điếu,
sai thành Lõ điếu...
“Học phiệt” - chuyện xưa nay
Tại sao tác giả Nguyễn Lân sai nhiều như
vậy? Theo tôi nghĩ, có ít nhất 4 nguyên nhân:
(1) Ông không có mẫn cảm về ngôn ngữ nhưng vẫn làm từ điển, ông không
rành chữ Hán mà vẫn làm từ điển từ ngữ Hán - Việt. Làm từ điển tiếng Việt mà
không rành chữ Hán là tử huyệt của nhiều người làm ngôn ngữ ở nước ta;
(2) Thiếu cẩn trọng: thực ra thì trước và cùng thời với từ điển của
Nguyễn Lân đã có không ít từ điển tiếng Việt tốt, nếu ông cẩn trọng tra cứu,
chỗ nào không rành thì chép của người ta cũng không đến nỗi sai;
(3) Thiếu kỹ năng làm từ điển: làm từ điển là một ngành học, phải có
hiểu biết nhất định về từ điển học mới có thể làm từ điển được;
(4) Thiếu một thái độ cầu thị: khi người ta chỉ ra sai lầm của mình thì
cần nghiêm túc xem xét lại, không được tự ái, cái gì sai thì nhận, cái gì đúng
thì trao đổi lại cho rõ.
Rất tiếc là dưới những sai sót lớn như vậy
của tác giả Nguyễn Lân, nhiều người bênh vực ông vẫn không cầu thị, còn phê
phán người chỉnh sửa với thái độ cố chấp.
Rồi có quan chức
trong ngành xuất bản còn nói như những người ngoại đạo hoàn toàn để bênh vực: “Chỉ có nhân dân hiệu chỉnh, còn
nhà khoa học này không thể hiệu chỉnh nhà khoa học khác mà chỉ có thể trao đổi”
(!) (cục trưởng Cục Xuất bản - in và phát hành Chu Văn Hòa trong trả lời phỏng
vấn của VOV ngày 11-8-2017).
Chúng ta đều biết nhân dân là một khái
niệm trừu tượng, làm sao họ sửa? Trong khoa học có sai có đúng, có những cái
sai mà chỉ những người có chuyên môn sâu về lĩnh vực ấy mới hiểu được, nhưng
cũng có cái sai mà người có hiểu biết ở trình độ phổ thông cũng hiểu, thậm chí
có những cái sai mà một học sinh cũng có thể sửa được (như sai chính tả).
Trong khoa học hay trong đời sống cũng
vậy, không ai biết hết được, sai thì sửa, không nên tự cao tự đại, tự ái, mình
chỉ có đúng, không ai sửa được mình.
Năm 1930, trên Phụ Nữ Tân Văn (số
62 ngày 24-7), Phan Khôi lúc bấy giờ mới hơn 40 tuổi đã viết bài Cảnh cáo các nhà “học phiệt” nhắm
tới Phạm Quỳnh, một học giả lừng danh bấy giờ.
Ông viết: “Học phiệt” là “Hạng người ấy ỷ có học rộng,
tri thức nhiều, văn hay, trí thuật cũng khá, rồi tự coi mình như là bậc “thầy”,
chẳng kể dư luận ra chi.
Đã
hay rằng mình giỏi, song thế nào cho khỏi sự sai lầm, vậy mà họ tự phụ quá, cứ
mạt sát hết. Ừ, cái dư luận nào không chánh đáng, họ mạt sát chẳng nói làm chi;
cái nầy, khi người ta công kích họ một cách chánh đáng, mà họ cũng làm thinh.
Làm
thinh, không phải tỏ ra là họ phục; nhưng làm thinh, tỏ ra là họ không thèm nói
với, thế mới đáng ghét.
Tôi
dâng cho họ cái huy hiệu “học phiệt”, lấy nghĩa rằng họ có ý kế nghiệp nhau mà
chuyên quyền trong học giới, cũng như bọn “quân phiệt”, đã nối nhau mà chiếm cứ
đất đai và quyền chánh trị bên Tàu”.
Ngay cả cuốn Từ điển tiếng Việt của GS.
Nguyễn Lân - Phê bình và khảo cứu của Hoàng Tuấn Công không
phải không có sai sót, không phải không ít chỗ phải bàn lại, nhưng điều đáng
ghi nhận là ở thái độ khoa học sòng phẳng.
Công trình này đã làm được công việc mà
Phan Khôi nói trước kia: trong khoa học chỉ có đúng sai, không có chỗ cho học
phiệt, nhờ thế nhận thức của con người mới tiến lên. ■
ĐOÀN LÊ GIANG (TRƯỜNG ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét