Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông (2003) của GS.TS Nguyễn Văn Khang (bản lưu ở Thư viện Quốc gia) Ảnh: HTC |
HOÀNG TUẤN CÔNG
Những sai sót trong cuốn Từ
điển chính tả tiếng Việt của GS.TS Nguyễn Văn Khang, bao gồm rất nhiều mặt,
như: sai chính tả do lẫn lộn CH với TR, S với X; D với R; GI với D; L với N; IU
với ƯU; dấu hỏi (?) với dấu ngã (~); sai về thành ngữ tục ngữ, từ ngữ Hán Việt...Nhiều
mục chỉ dẫn chính tả hoàn toàn ngược lại với chuẩn chính tả
hiện hành; chỉ dẫn giữa các mục từ tiền
hậu bất nhất; hướng dẫn viết nhiều dạng
chính tả không chuẩn, và rất nhiều
lỗi văn bản khác. Để chỉ ra sai sót
trong từ điển của GS.TS Nguyễn Văn Khang, chúng tôi sẽ căn cứ vào chính Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học – Hoàng Phê
chủ biên, gọi tắt là Hoàng Phê), và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, có sửa
chữa bổ sung sau khi GS Hoàng Phê thành lập Trung tâm Từ điển học Vietlex, gọi
tắt là Hoàng Phê (Vietlex) để làm chuẩn. Ngoài ra, chúng
tôi còn căn cứ vào nhiều cứ liệu trong hàng chục cuốn từ điển khác. Những mục
không có bất cứ cuốn từ điển uy tín nào chúng tôi có trong tay viết theo dạng
chính tả mà GS.TS Nguyễn Văn Khang hướng dẫn, sẽ được đánh dấu [K], sau mỗi
phần trao đổi.
3-Sai chính tả do phát âm sai và không hiểu nghĩa của từ ngữ, yếu
tố Hán Việt:
73-“chiêu:
chiêu mộ → không viết: triêu”.
Không
ít người lầm tưởng chỉ có “chiêu mộ”,
không có “triêu mộ”. Ví dụ “Từ điển
từ và ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) giảng: “chiêu mộ dt. Sáng và chiều”; “chiêu mộ đgt. Tuyển người làm một việc
gì”. Sự thực, ngoài “chiêu mộ” 招募 (tuyển mộ), còn có “triêu mộ”
朝暮 (sớm chiều), như “tiếng
chuông triêu mộ”.[K].
Như vậy, ở mục từ này, đáng ra
Từ điển phải có phụ chú và chỉ dẫn cụ thể, ví dụ: “chiêu mộ” (tuyển mộ), không lầm với “triêu mộ” (sớm chiều)”, thì
GS. TS. Nguyễn Văn Khang lại chỉ dẫn “không
viết: triêu”. Nếu ai đó băn
khoăn không biết nên viết “ba hồi chiêu mộ”
hay “ba hồi triêu mộ”, khi giở sách
và dùng theo chỉ dẫn của từ điển này sẽ bị sai.[K].
74-“soản: soản đoạt//
→ không viết: xoản, soẵn, soàng”.
Viết đúng là “soán đoạt”, vì “soán” là chiếm, cướp:
-Hán ngữ đại từ điển: “soán:
1. dùng sức mạnh để mà cướp lấy; 2. chỉ bề tôi cướp ngôi vua.”[篡: 1. 用強力奪取; 2. 特指臣子奪取君位].
-Hoàng Phê (Vielex): “soán đoạt • 篡奪 đg. [cũ, id] xem thoán đoạt”.
thoán đoạt • 篡奪 đg. [cũ] cướp ngôi vua. Đn:
soán đoạt, thoán nghịch”.
75-“trí: đắc trí. → không viết:
chí”.
Viết “chí” mới đúng. Vì “chí” 志 ở đây là chí nguyện, chí hướng:
-Hán ngữ đại từ điển: “đắc
chí: 1. nói thực hiện được chí hướng và nguyện vọng; 2. chỉ danh lợi, khát
vọng được thoả mãn”.[得志: 1. 謂實現其志願; 2. 指名利欲望得到滿足].
-Hoàng Phê (Vietlex): “đắc chí • 得志 t. 1 tỏ ra thích thú
vì đã đạt được điều mong muốn. “Nói xong, ông lý vỗ vào đùi bôm bốp, đắc chí
lắm, sung sướng lắm.” (Vũ Trọng Phụng; 15). Đn: đắc ý, khoái chí. 2
[cũ] được thoả mãn như hằng mong muốn. “(…) ánh trăng vằng vặc, sáng tỏ như
ban ngày, chiếu thêm nét mặt những anh hùng đắc chí.” (Nguyễn Huy Tưởng).[K].
76-“sán: sán lạn, sán lợn. →
không viết: xán”.
Viết “xán” trong “xán
lạn” 燦爛 mới đúng (ghép đẳng lập): “xán” 燦 có nghĩa là rực rỡ, chói lọi;
mà “lạn”
爛 cũng có nghĩa là tươi sáng, rực rỡ. Còn “sán” với tự hình 疝 lại chỉ nhóm giun kí sinh
thân dẹt ở người, động vật, hoặc chỉ bệnh sa đì, bệnh thoát vị bẹn, bệnh sưng
hòn dái. “Hán ngữ đại từ điển” giảng: “xán lạn: 1. vẻ rực rỡ, tươi đẹp; 4. hình dung sự việc hoặc sự nghiệp
huy hoàng, tốt đẹp.” [燦爛: 1. 明亮貌; 鮮明貌; 4. 形容事情或事業輝煌; 美好]. [K].
77-“sáng: sáng lạn → không viết:
sán”.
Điều kì lạ là ở mục “sán”,
GS. TS. Nguyễn Văn Khang hướng dẫn viết “sán
lạn”, đến mục này lại hướng dẫn viết “sáng
lạn”, đồng thời khuyên “không viết: sán” (rất nhiều mục từ chỉ dẫn kiểu
tiền hậu bất nhất này). Điều đáng nói, là cả hai cách viết này đều sai. Hoàng Phê (Vietlex) giảng: “xán lạn 燦爛 t. rực rỡ, chói lọi. tiền đồ xán lạn”.
Dù không phải từ điển chính tả,
nhưng Hoàng Phê đã có thêm chỉ dẫn
như sau: “nên nói và viết là xán
lạn, không nên dùng sáng lạn (sai khá phổ biến)”.
Có lẽ GS. Hoàng Phê cũng không thể ngờ rằng, người từng là cộng sự của ông -
GS. TS. Nguyễn Văn Khang - khi biên soạn từ điển chính tả, ngoài viết sai “sáng lạn”, còn thêm một kiểu sai nữa là
“sán lạn”, đặt cạnh mục “sán lợn”.[K].
78-“sao: thôi sao. → không viết:
xao”.
Viết “xao” mới đúng. “Thôi xao”
推敲, nghĩa là đẽo gọt, lựa chọn
chữ nghĩa. Nguyên Giả Ðảo đời Đường có câu thơ: Điểu túc trì trung thụ, Tăng xao nguyệt hạ môn 鳥宿池中樹, 僧敲月下門. Vốn Giả Ðảo định dùng chữ thôi
推 = đẩy (cửa), rồi lại định dùng chữ xao 敲 = gõ (cửa), băn khoăn mãi mà
không biết nên chọn chữ nào. Khi hỏi Hàn Dũ, ông bảo nên dùng chữ xao 敲. Sau này “thôi xao” 推敲 được dùng với nghĩa cân nhắc,
lựa chọn chữ nghĩa.[K].
79-“siêu: siêu tán. → không
viết: xiêu”.
Viết “xiêu” mới đúng. Vì “xiêu” có nghĩa là trôi nổi,
lưu lạc (như “hồn xiêu phách lạc,
xiêu lạc, xiêu dạt, xiêu lưu…). Hoàng
Phê (Vietlex): “xiêu tán 飄散 [phiêu tán nói trại] đg. [cũ] như phiêu tán. dân phải
xiêu tán vì giặc giã”.[K].
80-“lãi: lãi xuất”.
Viết chuẩn là “lãi suất” (do “lợi suất” 利率 trong tiếng Hán). Theo đây,
“suất” 率 là yếu tố gốc Hán, có nghĩa tỉ
lệ, mức. Hoàng Phê: “lãi suất
d. Tỉ lệ phần trăm giữa lãi so với vốn”.[K].
81-“sử: sử kiện. → không viết:
xử”.
Viết “xử” mới đúng
(xử 處 là yếu tố gốc Hán có nghĩa là
phân xử). Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức):
“xử kiện • đt. Phân-xử một vụ kiện, định phần lỗi phải về ai và định
tội-trạng: Quan ngồi xử kiện”.
82-“sử: sử nữ. → không viết: xử”.
Viết "xử” mới đúng (còn nếu viết "sử" thì phải là "nữ sử"女史):
-Hán ngữ đại từ điển: “xử nữ: 1. người con gái còn ở với cha mẹ; 2. chỉ con gái chưa đi lấy chồng, chưa từng quan hệ tính giao.” [處女: 1. 指待在家中的婦女; 2. 特指未出嫁,未曾有過性行為的女子]; “xử nữ mạc: lớp màng mỏng bịt quanh đường âm đạo, có lỗ tròn, của phụ nữ.” [處女膜: 婦女陰道口周圍的一層薄膜]
-Việt Nam tự điển-Hội Khai trí Tiến đức): “xử nữ: Người con gái còn ở nhà với bố mẹ, chưa đi lấy
chồng.” .
-Hán ngữ đại từ điển: “xử nữ: 1. người con gái còn ở với cha mẹ; 2. chỉ con gái chưa đi lấy chồng, chưa từng quan hệ tính giao.” [處女: 1. 指待在家中的婦女; 2. 特指未出嫁,未曾有過性行為的女子]; “xử nữ mạc: lớp màng mỏng bịt quanh đường âm đạo, có lỗ tròn, của phụ nữ.” [處女膜: 婦女陰道口周圍的一層薄膜]
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): “xử nữ mạc • dt.
Màng trinh, tấm da thật mỏng trong cửa mình người gái còn trinh".
83-“sử: sử tử. → không viết: xử”.
Viết “xử” 處 mới đúng. Vì “xử tử” 處死 nghĩa là xử tội chết, thi hành
án tử hình. Hán ngữ đại từ điển: “xử tử: 2. xử tử hình; chấp hành án tử
hình; 3. giết chết (phiếm chỉ)”. [處死 [chǔ sǐ] 2. 判處死刑; 執行死刑 3. 泛指殺死]. Nếu “sử tử” 使死 được Từ điển dùng với nghĩa “khiến
cho phải chết”, thì trong tiếng Việt cũng như tiếng Hán đều không có từ
này.[K].
84-“sử: tình sử, xét sử. → không viết: xử”.
Phải viết “xử” trong “xét xử” mới đúng. Trong tiếng Việt
không có khái niệm “xét sử”.[K].
Lỗi chính tả trong cùng một mục từ . Tờ phía trái là bản in năm 2003 tờ phía phải (đánh dấu đỏ) là bản in 2018 Ảnh: HTC |
85-“sửu: tài sửu. → không viết:
sỉu”.
Viết “sửu” hay “sỉu” đều không đúng. “Tài xỉu” 大小 (đại tiểu) là một trò cờ bạc
có tên đầy đủ là “đổ đại tiểu” 賭大小. Theo đây, “xỉu” là phiên âm của “tiểu” 小 (bính âm: xiǎo), nên phải viết
“tài xỉu”.
86-“triết: khúc triết. →
không viết: chiết”.
Viết “chiết” mới đúng. Vì “chiết” 折 nghĩa là cong, “khúc chiết” 曲折 là quanh co. Hoàng Phê (Vietlex): “khúc chiết 曲折 t. 1 [cũ, id] quanh co, không thẳng. lựa lời khúc chiết để
chối quanh. 2 [cách diễn đạt] có từng đoạn, từng ý, rành mạch và gãy
gọn. lời văn khúc chiết”.[K].
87-“trung: “triết trung chủ
nghĩa”.
Viết đúng là “chiết
trung chủ nghĩa”.
-Hán ngữ đại từ điển:
“chiết trung: 3. chỉ dung hoà sự bất
đồng ý kiến hoặc tranh chấp.” [折中: 3. 指調和不同意見或爭執].
-Hoàng Phê (Vietlex): “chiết trung • 折中 đg. [id] [phương pháp nghiên
cứu hoặc giải quyết vấn đề] dung hoà, thường là một cách khiên cưỡng, các ý kiến
khác nhau cho gọi là vừa phải. một ý kiến có tính chất chiết trung.”; “chiết
trung chủ nghĩa 折中主義 t. có xu hướng,
có tính chất chiết trung”.[K].
88-“trung: lang chung”.
Viết chuẩn là “lang trung”
郎中 (thầy thuốc, lương y; tên một chức quan; Không rõ vì sao mục
“trung” lại thu thập “lang chung”?).[K].
89-“trưởng: trưởng bạ. →
không viết: chưởng”.
Viết “chưởng” mới đúng. Vì “chưởng” 掌 nghĩa là nắm, giữ; “chưởng bạ” 掌簿 = người nắm giữ sổ sách giấy
tờ; “chưởng ấn” 掌印 = người giữ ấn tín. Hoàng
Phê (Vietlex): “chưởng bạ 掌簿 d. [cũ] nhân viên trông coi sổ sách về ruộng đất của chính quyền ở
làng xã thời trước. “Giấy má làm theo kiểu văn tự bán đất có chữ ký, có triện
của lý trưởng chưởng bạ.” (Tô Hoài).[K].
90-“xa: xa trường. → không viết:
sa”.
Viết “sa” mới đúng. Vì “sa trường”
沙場 là từ Việt gốc Hán, trong đó “sa”
沙 nghĩa gốc là “cát”, “bãi cát ven sông”. “sa trường” 沙場 = bãi cát bằng mà rộng, thường dùng để chỉ chiến trường. Hoàng Phê (Vietlex): “sa trường •
沙場 d. [cũ] chiến trường. bỏ thân ngoài sa trường ~ người
thì ở lại, kẻ đi sa trường”. [K].
91-“xa: kiêu xa. → không viết:
sa”.
Viết “sa” không sai. Vì ngoài “kiêu xa • 驕奢 t. [cũ, id] kiêu căng và
xa xỉ. quen thói kiêu xa.”, còn có “kiêu sa • t. [người phụ
nữ] đẹp một cách sang trọng và tỏ ra kiêu hãnh. vẻ đẹp kiêu sa.” (Hoàng Phê – Vietlex).
92-“xuất: khinh xuất. → không
viết: suất”.
Viết “suất” mới đúng (ghép đẳng
lập): “khinh” 輕 = xem nhẹ; “suất” 率 = hấp
tấp, không thận trọng:
-Hán ngữ đại từ điển: “khinh suất: nói năng hành động tuỳ tiện;
không thận trọng, không nghiêm túc.” [輕率: 言行隨便; 不慎重, 不嚴肅].
-Hoàng Phê (Vietlex): “khinh suất • 輕率 t. thiếu thận trọng, không
chú ý đầy đủ, do coi thường. còn lo ngại nên không dám khinh suất.” [K].
93-“xuất: thống xuất. → không
viết: suất”.
Viết “suất” mới đúng. Vì “suất” 率 có nghĩa là dẫn đầu, chỉ huy. Từ điển Hoàng Phê (Vietlex): “thống suất 統率 đg. [cũ] chỉ huy, đốc suất toàn quân đội”.[K].
94-“xuyên: xuyên giáp sơn”.
Chỉ có xuyên sơn giáp
穿山甲 (tên chữ của con trút, tê tê), không có “xuyên giáp sơn”.[K].
95-“xứ: xứ bộ. → không viết: sứ”.
Viết “sứ” mới đúng. Hoàng Phê (Vietlex): “sứ bộ 使部 d. [cũ] phái đoàn đi sứ thời phong kiến”). Nếu “xứ bộ” mang một
nghĩa nào khác (kiểu như “xứ uỷ”), thì phải có chỉ dẫn cụ thể để không nhầm với
“sứ bộ” 使部. [K].
Như vậy, GS. TS. Nguyễn Văn
Khang đã bỏ qua bước tra cứu tài liệu, đưa ra chuẩn chính tả theo cảm tính, dẫn
đến hàng loạt sai sót về từ và yếu tố Hán Việt ngay từ thời xuất bản Từ điển chính tả tiếng Việt phổ thông
(2003), sau đó tiếp tục tái bản, dĩ hư truyền hư dưới tên sách Từ điển chính tả tiếng Việt (2018).
vụ từ điển này đang rất nổi. giáo sư tiến sĩ mà cũng cho ra 1 từ điển đầy sai sót thế này. cuốn từ điển này với dân chúng bình thường chỉ là giấy nhóm lò thôi. nhưng đem vào giảng dạy thì nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm
Trả lờiXóaHoàng Tuấn Công : một mình phá đổ tượng đài "dỏm" Nguyễn Lân,bây giờ lại gây địa chấn với nỗ lực bóc trần sự kém cỏi,dối trá của hàng loạt giáo sư,tiến sĩ của Viện ngôn ngữ,Khoa ngữ văn đại học tổng hợp Hà Nội v.v...,bái phục anh bạn trẻ !
Trả lờiXóaHay!
Trả lờiXóaKhông thể tưởng tượng ông Tiến sĩ Ngữ học mà lại dùng sai các chữ khá thông dụng như : lãi suất,xử kiện,xử nữ,xét xử,xử tử,khúc chiết,chiết trung,chưởng bạ,sa trường,khinh suất,thống suất.v.v...thật là kinh khủng ! không biết các em học sinh,sinh viên sẽ viết tiếng Việt ra sao nếu xài từ điển của G.S.T.S.Nguyễn văn Khang ???
Trả lờiXóaÔi GS.TS ơi, sao Nhà nước không thu hồi đi, còn để soạn sách chính tả mà sai chính tả cả đống như vậy. Trách nhiệm này thuộc về ai, chắc là cả lũ à?
Trả lờiXóaPhải xem ai thẩm định, cấp phép. Từ điển chứ có phải truyện, thơ...đâu mà cho phát hành cẩu thả thế?
Trả lờiXóaHoan hô Ông Hoàng Tuấn Công
Trả lờiXóaXin ông dọn rác cho thông Văn Đàn
Giáo sư như vậy phí công,
Tiền Dân đóng thuế để phong học hàm
Mua danh bán tước quan tham
Xin mong điều luật truất hàm giáo sư
Mong cho điều luật bỏ tù
Những ai làm hỏng bút Thư nước nhà