HOÀNG TUẤN PHỔ
(Hồi ký viết lúc hoàng hôn)
Tôi và anh Nậu về đến
nhà, mẹ tôi đang nấu cơn trưa. Cảnh nhà vắng vẻ. Bố tôi như thường lệ đi chợ
Muôn bán thuốc Đông y từ sáng sớm. Mẹ tôi ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Chả biết có
chuyện chi, chó cắn suốt đêm văng vẳng, như có người rình mò đằng sau nhà, còn
qua lại dò la trước ngõ. Chú Thuyết đã bị bắt rồi, nghe nói đưa lên huyện...”
Tôi nói để trấn an mẹ
tôi, cũng là để trấn tĩnh lòng mình: “Mặc họ. Mình không làm gì nên tội thì lo
chi tội!”. Mẹ tôi lắc đầu: “Nhà ta giàu có chi mô mà mắc tội phú nông, sạch cửa
sạch nhà!” Tôi nói lảng: “Con còn ba tháng nữa mới hết niên khoá. Năm học kéo
dài vì máy bay máy bò, còn đi vác gạo lên Thọ Xuân, Yên Định...”. Mẹ tôi bảo:
“Thày con biểu con phải về nhà vì lo cháy...cháy cái chi nhờ...à, “cháy thành
vạ lây”, con ở trên Nông Cống lỡ xảy ra chuyện chi, ở nhà biết mô mà lần”. Tôi
im lặng không nói gì, lên võng nằm thở dài.
Chiều muộn, bố tôi đi chợ Muôn về, đặt phịch cái gánh có đôi
bồ con xuống cửa. Ông lấy ra gói lá chuối, bên trong có mấy lạng thịt bò và một
chai ba rượu, rồi tự mình vào bếp đun nấu. Chập choạng tối, bố tôi dọn mâm, lên
ngồi giữa giường, trước mặt là cái mâm gỗ (mâm đồng cùng nhiều thứ khác đã bán
lấy tiền nộp “thuế khả năng”). Trên mâm có đĩa thịt bò xào, chai ba rượu, món
rau thơm không bao giờ thiếu. Bố tôi ngồi xếp bằng tròn, nâng chén rượu uống
một ngụm, rồi tay cầm đũa gõ bát cành cạch, gật gù nói: “Con về sớm là phải.
Tình hình ở nhà có nhiều...thay đổi lắm!”.
Hai con chó bắt đầu lên
tiếng sủa vang đằng sau nhà. Chừng đã ngấm hơi men, bố tôi tự nói một mình:
“Tao không nói thuế nông nghiệp là thuế thất nghiệp! Tao cũng không nói thuế
khả năng liền bà mất váy, liền ông không quần! Ai lại dại mồm dại miệng nói càn
nói bậy đến rứa!”. Ngừng một lát, ông nói tiếp: “Tao chưa từng thấy cái ba-ra
Bàn Thạch mặt ngang mũi dọc ra răng, mà đứa mô tố cáo tao đề nghị thằng Tây ném
bom phá hắn đi để nhân dân chết đói!”. Lúc sau, ông lại nói: “Tao có vô hội
Phật giáo vì nhà ta bốn đời thờ Phật cứu nhân độ thế, răng lại có chuyện tao
làm phản động?”.
Tiếng chó vẫn sủa văng
vẳng. Ông vẫn lè nhè giọng say rượu: “Nói có Phật trời chứng giám, tao mà phản
dân hại nước thì chết cả nhà!”
Mẹ tôi, anh Nậu và tôi
đều thức cả. Mãi đến khuya, bố tôi vẫn tiếp tục nói, trở đi trở lại từng ấy
câu. Ông nói mãi, như thể để chúng tôi hay mấy con chó nghe. Đêm đã khuya, ba
mẹ con mệt mỏi và buồn ngủ lắm rồi!
Rạng sáng hôm sau, tiếng
hai con chó sủa dữ dội. Tôi giật mình tỉnh giấc. Anh Nậu thì thào với mẹ tôi
(hai mẹ con thức dạy từ lâu): “Hình như quanh nhà ta có người canh gác. Lúc con
đi tiểu thấy ai như ông Từ Nhen cứ lảng vảng qua lại ngõ nhà ta”. Mẹ tôi xua
xua bàn tay: “Mặc họ...”.
Tôi nhìn ra sân, thấy
người đứng lố nhố. Bố tôi cũng vừa thức dậy, liền bò khỏi giường. Lập tức có
mấy người tiến lại. Hai người túm giữ chặt hai cánh tay ông. Một người đeo súng
lục xệ bên hông. Anh ta lấy trong túi ngực ra tờ giấy và đọc to: “Lệnh bắt
người!”. Tai tôi ù đi, không còn nghe được nội dung lệnh viết gì. Anh đeo súng
lục đọc dứt lời, họ liền mở cuộn dây thừng trói giật cánh khỉ bố tôi lại, ra
sức xiết thật chặt! Tiếp theo tờ “Lệnh bắt người” là tờ “Lệnh khám nhà”. Lúc
này trời đã sáng rõ. Bao nhiêu sách vở họ lục hết ném tung ra sân. Chữ Nho, chữ
Tây, Quốc ngữ, sách in hay chép tay, họ đều lật lật, giở giở xem qua rồi ném
dồn lại một nơi. Trong nhà, một nhóm người sục sạo khắp xó xỉnh, móc cả kẽ
vách, bươi cả đống tro bếp, nhà trên, nhà dưới, không thiếu chỗ nào. Họ tìm tài
liệu bí mật của bọn phản động, nhưng chả thấy gì. Họ tìm lại rất kỹ trong sách
vở, cũng không tìm được thứ cần tìm.
Anh đeo súng lục tuyên
bố: “Sách Nho của phong kiến, sách Tây của đế quốc, sách quốc ngữ của phản
động, tất cả đều phải đốt cháy ra tro! Chúng ta đánh đổ phong kiến đế quốc,
tiêu diệt phản động không được nương nay!”
Có nhiều tiếng vỗ tay lộp bộp. Họ dồn tất cả
sách vở ra giữa sân, chất cao như đống rơm, đụn rác rồi phóng lửa đốt!
Mắt tôi nhoà đi! Kho tri
thức này mấy đời nhà tôi tích luỹ, phút chốc hoá thành tro bụi. Trong đó có cả
tài liệu Mác Ăng ghen - Lê nin của Phân hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác của Liên
khu IV!
Anh công an huyện lấy
trong xắc cốt cái cùm bằng sắt, cùm tay bố tôi quặt ra đàng sau. Bố tôi kêu:
“Tôi tê liệt cả hai tay rồi! Xin ông nới lỏng cho cái dây trói!” Ông Từ Nhen,
ông học trò của bố tôi trước Cách mạng tháng Tám, quát vào mặt người thầy học
cũ: “Tội mi đáng tùng xẻo, cùm với trói đã ăn thua gì!”.
“Giải đi!”. Một người
theo lệnh buộc dây thừng vào cổ bố tôi dắt đi. Thì ra ranh giới giữa con người
với con vật chỉ ở sợi dây thừng, chỉ cách nhau một sợi dây thừng!
Mẹ tôi bật khóc, cố nén
lại trong cổ họng, chỉ nghe tiếng “ức! ức!”
(hết phần I)
HTP/9/2016
(*) Sáng ngày mùng ba Tết
(1995) tôi bảo Tuấn Kiên đưa bố lên Cầu Quan để xem Hội bơi thuyền mới khôi
phục. Bởi lễ hội mới khôi phục, lễ không còn lễ, mà hội chưa đúng lề lối xưa,
thiếu không khí hội hè. Tôi bảo Tuấn Kiên tiện đường đưa bố thăm lại mấy nơi
hồi niên thiếu còn đi học.
Chạy dọc bên dòng sông
Lãng Giang nước đục ngầu, uể oải, lờ đờ trôi, con đường từ Cầu Quan lên chợ Nưa
rải đá vẫn như cũ. Qua nhà ông Bản Đức, tôi bảo Tuấn Kiên dừng xe lại. Đây là
nơi tôi đã học năm đệ nhị. Cảnh nhà vắng vẻ tiêu điều. Ông Bản Đức đã bị xử bắn
năm 1956 cải cách. Cái tội của ông là nhà có quá nhiều ruộng đất, và từ mấy
chục mẫu ruộng đã đẻ ra tô tức, tô tức lại đẻ ra nợ máu với nông dân! Nợ máu
phải trả bằng máu, có gì lạ!? Chiếc cầu ao bằng gạch chỉ gắn xi măng, bắc xuống
ao hẹp, xưa kia chúng tôi thường rửa chân, thế mà đến nay vẫn còn. Nhưng rêu
bám và bậc nào cũng nghiêng lệch như sắp đổ xuống ao. Cái nhà dài dằng dặc, mấy hộ bần cố nông được chia “quả thực”, bị lở lói
xám ngắt...Tôi bảo với Tuấn Kiên: “Chúng ta đi tiếp!”.
Xe phóng thẳng một mạch
đến đầu làng Lượng Định, vào ngay nhà anh chị Đỗ. Anh chị đã mất lâu, con cháu
dĩ nhiên không biết tôi là ai. Tôi vào trong nhà, muốn thắp lên bàn thờ ba nén
hương để kính viếng âm hồn anh chị Đỗ. Nhưng bàn thờ lạnh ngắt, hương không có,
bát nhang cắm xiêu vẹo mấy chân hương. Tôi đành vái ba vái, cúi đầu làm lễ,
khấn nôm vài câu, hy vọng “tâm động quỷ thần tri”.
Bố con tôi lên cầu
Trắng. Thành cầu mới quét vôi trắng toát. Tôi nói: “Đây là nơi năm 1951, bố học
trường Cổ Định thường cùng anh bạn thân tối tối cùng nhau ngồi trên bờ thành
cầu nói chuyện rất vui...”
Nhìn phía cánh đồng Nấp
Nưa, khoảng giữa đồng nổi lên một lùm cây xanh xanh, tôi hỏi ông lão chăn bò: “Lùm
cây xanh xanh giữa đồng kia là gì hả bác?”. Ông trả lời: “Nhà anh Vinh con ông
Bản Hớn”. Tôi lại hỏi: “Bác có biết nhà
ông Bản Hớn bây giờ thế nào không?” Ông lão ngạc nhiên: “Anh ở mô mà cũng biết
nhà ông Bản Hớn?” Tôi đáp: “À hồi nhỏ tôi có trọ học ở vùng này.” Ông già là
người hay chuyện. Ông kể cho tôi nghe
nhiều về chuyện ở làng quê ông.
Tôi được biết anh Vinh
hồi cải cách ruộng đất, đem vợ con chạy trốn một thời gian, đến khi nghe nói
chủ trương sửa sai, anh cùng vợ con lại dắt nhau về. Nhưng nhà cửa đã chia cho
nông dân, mọi thứ đồ đạc, tài sản đều là “quả thực”. Anh lên gặp UB xã xin nhà
ở, họ trả lời: “Đã là quả thực, Đội chia rồi, không thể trả lại. Hơn nữa, chỉ “sửa
sai” về tinh thần, không “sửa sai” về vật chất!” Anh Vinh xin nơi cư trú, họ
nói: “Tại anh bỏ đi, mắc tội trốn cải cách, không hỏi tội là may phúc!” Anh Vinh
nói cứng: “Xã không giải quyết, tôi buộc lòng phải kêu lên huyện!” Họ “hừ” một tiếng: “Thì anh đi mà kêu huyện!”
Anh Vinh không có chỗ ở, đành che túp lều bằng ni lông ở đầu cầu Trắng
cho vợ con trú mưa nắng tạm thời. Chẳng biết xã bàn nhau thế nào, gọi anh Vinh
lên cấp cho một cái nhà nát nông dân đã chuyển đến nhà quả thực. Anh từ chối,
bỏ lên làm lều ở miếng đất bái hoang rậm kia, nằm giữa ranh giới địa phận đồng
Nấp Nưa, phía này thuộc Lượng Định, bên kia của Cổ Định, không bên nào quản
lý...
Tôi rất muốn đến gặp
anh Vinh để hỏi thăm tin tức Hiển và Vũ. Nhưng suy đi nghĩ lại thấy có điều bất
tiện. Thứ nhất, tôi với anh chỉ biết mà không quen. Riêng tôi, chưa chắc anh đã
nhớ tên. Thứ hai, anh ra giữa cánh đồng không mông quạnh kia để ở, khác nào
người ẩn cư muốn xa lánh đời, nay mình đến hỏi tin tức em anh, chắc anh không
dám nói thật. Thôi, cứ hãy biết như vậy là tạm đủ.
Hôm nay, ngày mồng ba
Tết, ở tuổi 60, tôi mới được trở lại ngồi trên cầu Trắng, sờ lên mái tóc, biết
đầu mình cũng đã ngả màu bạc trắng! Nhẩm tính gần 45 năm tôi mới có dịp đứng
trên cầu Trắng để ôn lại kỉ niệm bạn bè. Bây giờ hai bạn đang ở đâu? Hiển có
chữ nghĩa, hẳn cũng kiếm được công ăn việc làm. Vũ có nhan sắc chắc phải chồng
con tử tế. Lời dân gian thường nói: Con
cái như hạt mưa sa, hạt rời gác tía, hạt ra ngoài đường!” Ai biết được lòng
trời thế nào? Trong cảnh thất cơ lỡ vận ở nơi đất khách quê người, tôi e
rằng...Nhưng trong thâm tâm tôi hằng mong, luôn tin tưởng cả hai anh em đều
hạnh phúc, không như tôi...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét