HOÀNG TUẤN CÔNG
Sách "Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Việt Nam (dùng cho học sinh, sinh viên)" của hai tác giả Thanh
Long-Tường Ngọc (NXB Đồng Nai-2014). Có thể nói toàn bộ 575 trang, khổ 10x18, không
lỗi này thì lỗi khác, rất hiếm những trang không sai sót. Sau đây, chúng tôi
xin liệt kê sơ lược một số lỗi:
1.GIẢI THÍCH SAI (phần gạch đầu dòng trong ngoặc kép là
nguyên văn từ điển; phần xuống dòng tiếp theo là ý kiến trao đổi của chúng tôi):
-"Biết ngứa đâu mà gãi. Không biết việc sẽ tới ra sao để ngừa trước
cho khỏi hư việc, lời nói để tránh trách nhiệm của người không biết phòng xa"
Thực ra, ý tục ngữ là: Không biết ý muốn, nhu cầu cụ thể
của người khác thế nào, nên rất khó đáp ứng, khó chiều lòng.
-"Cà
cuống chết đến đít còn cay: Chết
rồi mà tiếng còn để đời".
Nghĩa bóng dân gian nói thái độ, hành động ngoan cố, bảo
thủ; cay cú, chống đối đến cùng, ngay cả khi đã thất bại.
-"Chó chê cứt nát: Dễ
chê hôn (sic), (nó mà chê thì không khác gì chó chê cứt nát)//(B) Không ăn khi
bụng đã no, không nhận khi đã có thừa."
Không đúng. Nghĩa bóng của của thành ngữ là: Kênh kiệu, đài các không phải kiểu; Không
biết thân phận mình. Đồng nghĩa: "Kẻ cắp còn chê vải hẹp khổ; Vịt chê
thóc lép không ăn"...
-"Đĩ khóc, tù van, hàng xáo kêu lỗ, thế gian sự thường: Lâu lâu, phải có một năm mất mùa, lúa cao
gạo kém, thiên hạ đói khổ, đó là lẽ thông thường xưa nay//Lúc kinh tế khủng
hoảng, làm ăn không được, phần nhiều ai cũng khổ sở cả".
Giảng nghĩa theo kiểu suy diễn, thiếu căn cứ. Tục ngữ nói: nên
cảnh giác, đừng ngạc nhiên, mắc lừa đối với những lời kêu ca phàn nàn cửa miệng của một số
thành phần trong xã hội, như đĩ điếm, tù tội, kẻ buôn gian, bán lận...
-"Lợn lành chữa lợn toi: Nhà có heo bệnh phải bán heo lành mạnh chạy thuốc cho con bệnh, hoặc
làm thịt để cúng vái".
Trong thực tế không có chuyện bán "lợn lành" để
lấy tiền chữa bệnh cho "lợn toi", càng không có chuyện mổ lợn để
"cúng vái" (cầu cho lợn ốm khỏi bệnh). Nghĩa bóng của tục ngữ ám chỉ
kẻ vụng về, vật dụng đang tốt, đem chữa thành hỏng; thầy thuốc chữa bệnh nhẹ
thành bệnh nặng. Đồng nghĩa: "Bò lành chữa thành bò què"; Chẳng
chữa thì sống, chữa thì kèn trống ra đồng."
- "Mài mực ru con, mài son đánh giặc: Cảnh tao nhã của
người hay chữ, một xã hội VẰN (sic) vật".
Sai. Đây là kinh nghiệm mài mực và mài
son: mực Tàu phải mài nhẹ nhàng như "ru con" mới cho mực tốt. Nguyên do: mực tàu mài mạnh
tay cho nhanh, mực sẽ không mịn, sinh ra lắm hạt sạn nhỏ; khi viết ngọn bút bị xơ, nét bút không đẹp. Ngược lại, nếu mài nhẹ nhàng, êm ái (như “ru con” theo cách ví von
của dân gian) mực trong thỏi sẽ ngấm dần, hoà tan, quyện với nước, cho một thứ
mực mịn màng, sóng sánh, khi viết đầu
bút chụm lại, bút lông có độ đàn hồi tốt và nét bút không bị xơ, cứng, mặt chữ
bóng, đẹp. Thế nên, việc chọn đá làm nghiên
mài mực cũng rất cầu kỳ. Nếu đá
nhẵn quá, khi mài, thỏi mực cứ trơ trơ, trơn tuồn tuột. Nhưng nếu đá quá thô ráp, khi mài sẽ không cho được thứ mực mịn
màng, sóng sánh. Đá tốt nhất là loại đá có độ ráp vừa phải, đủ để thỏi mực bào
mòn từ từ, đảm bảo chất lượng mực. Thế nên, tục ngữ Hán có câu: "非人磨墨, 墨磨人-Phi nhân ma mặc, mặc ma nhân
-Không phải người mài mực, mà mực mài người";
"墨是可已磨濃的-Mặc thị khả dĩ ma nùng đích-Mực
mài lâu mới đậm". Nghĩa là mài mực cũng là một khổ công, phải mài nhẹ
nhàng, mài rất lâu mới ra được thứ mực tốt.
Còn đối với mài son, xưa kia,
người ta thường lấy các loại đá có màu đỏ trong tự nhiên để làm son, rất rắn.
Tuy nhiên, son không yêu cầu mịn như mực, bởi thông thường người ta không dùng
son để viết chữ, mà chủ yếu dùng để phê, khuyên, đánh dấu hoặc đóng ấn, triện. Do
đó, khi mài son được phép mài (và phải mài) mạnh tay mới được (mạnh mẽ như đi
“đánh giặc” vậy).
-"Miệng khôn, trôn dại: Nói nhiều câu phạm thượng đến phải bị đòn bụng đau đớn".
Không đúng. Tục ngữ nói đến hạng đàn bà, con gái, ăn nói
thì có vẻ khôn ngoan, nhưng thực tình lại nhẹ dạ cả tin, dễ sa ngã.
-"Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi Trong nhà, có đánh vợ rầy con (mưa gió) thì
cũng trong giây lát rồi thôi, để trên thuận dưới hoà mà lấy lại nếp sống bình
thường, chớ không nên kéo dài suốt ngày, đến bỏ bữa ăn trưa (khoảng giờ ngọ) và
giấc nghỉ trưa (khoảng giờ mùi) không vậy, sự bất hoà sẽ khó bề hàn gắn."
Suy diễn buồn cười, vô căn cứ. Đây là kinh nghiệm đoán
biết thời tiết. Vế một: nếu cơn mưa bắt đầu từ buổi sáng thì thường không kéo
dài quá trưa [Dị bản: "Mưa không qua Ngọ, gió chẳng qua Mùi". Tục ngữ gần nghĩa: Sáng ướt áo, trưa ráo thóc; Sáng mưa, trưa tạnh; Sáng mưa, trưa nắng;
Mưa sáng mai, mài rựa đi rú]. Câu nói quen thuộc trên các bản tin dự báo thời
tiết "trưa chiều giảm mây trời nắng" chính là phản ánh quy luật của những
cơn mưa sáng. Thế nên, tục ngữ Tày cũng có các dị bản gần nghĩa: "Mưa sớm thì ở nhà giặt chăn"
[Phân dạu giú rườn rắc và]; "Mưa buổi sớm thì thóc đổ ra phơi ở
dàn." [Phân dạu khẩu thác dàn],
đều có nghĩa: mưa buổi sáng thì trưa sang chiều sẽ tạnh nắng, nên vẫn còn thời gian phơi chăn, phơi
thóc. Hay tục ngữ Việt gốc Hán: "Vũ bất quá Ngọ-雨不過午-Mưa thường không kéo dài quá giờ Ngọ".
Vế hai: "gió không qua Mùi", thì "gió"
đây là gió mùa đông bắc: sáng sớm gió thổi mạnh hun hút qua buổi trưa, nhưng đến nửa chiều thì sẽ lặng [Có câu "Bấc
lặng hôm, nồm lặng mai" là vậy]. Giờ Mùi là từ 13 đến 15 giờ, ai còn "nghỉ trưa" nữa?
Vô số lỗi trong từ điển |
2.DÙNG TỪ NGỮ ĐỊA
PHƯƠNG, PHÁT ÂM CỔ, RẤT KHÓ HIỂU:
"Bắt chuột không hay, hay ỉa bếp:
Người kém hoạt động, không LAU LÁCH,
chỉ LÚC THÚC trong nhà"; "Bồ
dục chấm nước cáy: XẲNG LÈ,
cách nói năng cộc cằn thô lỗ"; "Liên HƯỜN kế" [HOÀN]; "Bạt sơn cử ĐẢNH" [ĐỈNH];
"Chuyện DĨ lỡ rồi" [ĐÃ], "chó RƯỢN cái";
v.v...
3. KHÔNG PHẢI THÀNH
NGỮ, TỤC NGỮ:
Từ điển thu thập rất nhiều những từ, ngữ không thải thành
ngữ tục ngữ. Ví dụ: "Phát triển cộng
đồng"; "Cảm giác nhận thức"; "Cảm giác tác dụng"; Cảm
giác thần kinh"; "Cảm giác tri thức"; "Lãnh sự tài
phán"; "Lễ cầu thân"; "Lễ đại liệm"; "Lễ đại tường";"Lễ
động quan"; "Lễ hạ rộng"; "Lễ yết tổ"; "Lễ khao
vọng"; "Lễ mở cửa mả"; "Lễ nhập quan"; "Lễ tiểu
tường"; "Lễ vấn danh"; Nhiều từ như "bắn sẻ"; "bích hoàn"; "bích huyết"; "dạy
con".v.v... vốn xuất phát từ điển cố, điển tích của Tàu, chứ không
phải thành ngữ, tục ngữ.
Sách có tên "Từ điển thành ngữ, tục ngữ, ca dao
Việt Nam", nhưng chúng tôi không thấy một bài ca dao nào, ngoài một
vài câu kiểu như: "Tiếc thay hạt gạo
trắng ngần, Đã vo nước đục lại vần than rơm". Tuy nhiên, đây là tục
ngữ mang hình thức ca dao, chứ không phải ca dao (Dị bản đồng nghĩa: "Hoài hồng ngâm cho chuột vọc";
"Hoài cành mai cho cú đậu").
Vả lại, người ta chỉ làm "tuyển tập ca dao" chứ không ai làm "từ
điển ca dao" cả.
4. SAI CHÍNH TẢ:
Dấu "ngã", thành dấu "hỏi", ngoặc ngược lại: "Cày sâu
cuốc BẪM" thành "cuốc
BẨM"; "MÃNH hổ nan địch quần hồ" thành "MẢNH hổ... "; Mâm cao CỖ đầy" thành "CỔ đầy"; "VIỄN chinh"
thành "VIỂN chinh";
"MỠ để miệng mèo" thành "MỞ
để...",v.v...
5.LỖI VĂN BẢN TRẦM
TRỌNG: (Phần in nghiêng trong ngoặc
kép là nguyên văn từ điển. Chữ viết hoa trong ngoặc [...] do chúng tôi đính
chính).
"Ăn chực đòi ĐÁNH chưng"
[BÁNH]; "BẠCH bể nương dâu"
[BÃI]; "BÓC ra ma" [BÓI]; "BÓC nơi khố bện, đãi nơi quần
hồng" [BÒN]; "BÚT không ăn
mày ma" [BỤT]; "BỤC chỉ cổ
tay" [BUỘC]; "BỮA mắt bắt
chim" [BƯNG]; "Biển thánh,
rừng NHU" [NHO]; "Cha mẹ cú
ĐỂ con tiên" [ĐẺ]; "Cha mẹ
NGÀNH đi con dại" ["NGOẢNH]. "Chẳng
được ăn cũng LAY lấy vốn" [LĂN]; "DƯỚI
chất hổ bì" [DƯƠNG]; "Đĩ
GIÁC lấy chồng quận công" [RẠC]; "Rồng
RÔNG theo NỌ" [Rồng RỒNG theo NẠ]; "Già
sanh tật, đất SẢNH cỏ" [SANH]; "KÉN
cày trả nợ" [KÉO]; "Khẩu
TUNG tâm SUY" [Khẩu TỤNG tâm DUY]; "KHỔ
son bòn khố nâu" [KHỐ]; "Làm
CÁCH sạch ruột" [KHÁCH]; "Làm
CỎ không lo mất phần" [CỖ]; "Làm
CỎ sẵn cho người ăn" [CỖ]; "Làm
giàu có số, ăn CỎ có phần" [CỖ]; "Kiếp
trâu ăn CÓ" [CỎ]; "Cao BIỂN
dậy non" [BIỀN]; "RẰM mồng
năm" [RẮN]; "RÁO quan
viên" [RÉO]; "Mình ốc không
rửa, còn mang cục KÊU" [RÊU]. "Thần
vong CHỈ hàn" [XỈ]; "Phú
quý như BÙN vân" [PHÙ]. "BẮC
bất ba đào dị nịch nhân" [SẮC]; "MƯA
thẳng mất lòng cây gỗ cong" [MỰC];...
Có những thành ngữ, tục ngữ bị viết sai, nhưng vẫn có
nghĩa, khiến học sinh, sinh viên rất khó phát hiện: "Bệnh QUÝ có thuốc tiên" [QUỶ]; "Được voi đòi TIỀN" [TIÊN]; "Mất cả chì lẫn CHÀY" [CHÀI]; "Gông ĐỒNG tróng mang" [ĐÓNG]; "Nắng chóng MƯA, mưa chóng tối" [TRƯA]; "Toạ thực sơn BẰNG" [BĂNG]; "Làm hàng săng chết BỎ PHIẾU"
[BÓ CHIẾU]; "Mài SẮC nên kim"
[SẮT]; "Huynh đệ như thủ TỤC"
[TÚC]; "Cà cuống LỘN ngược"
[LỘI]; "Ma ăn CỎ: Việc âm thầm sai
quấy: Ai biết đâu chỗ ma ăn CỎ ấy" [CỖ]; "Sứa nhảy HOA đăng" [QUA]; "Khẩu THỊT tâm phi" [THỊ]; "Nói như VẠT miếng thịt" [VẠC]: "Thanh cậy thế, Nghệ cậy THẦY" [THẦN]...
Phần diễn đạt cũng sai rất nhiều. Ví dụ: "KẺ dại"
thành "KỂ dại" (tr173); "RƯỢT bắt" thành "RƯỢU
bắt" (tr111); "MẠ già" thành "MẸ già" (tr135); "CHẬM
rãi" thành "CHẪM rãi" (tr195); "GIÁC cây GỤ" thành
"GIĂM cây GÕ" (209); "ngạo MẠN" thành "ngạo
MẠNG"; "HUƠ đao" thành "HUƠI đao" (tr.203); "lỗ
TRÔN" thành "lỗ TRỐN"; "NGƯ phủ" thành "NGU
phủ" (tr.211).
Ngoài ra, toàn bộ các ký hiệu, chữ viết tắt trong từ điển
không hề có phần hướng dẫn sử dụng.
Những lỗi trên, chúng tôi chỉ mới sơ lược liệt kê đến trang
279/tổng số 575 trang. (Ví như các trang 164-165 phạm tới 12 lỗi, nhưng chúng
tôi chỉ mới nêu ra 2 lỗi). Theo chúng tôi, chỉ riêng sai sót về khâu chế bản,
cuốn từ điển này đã đáng bị thu hồi. Đáng chú ý, đây không phải là lần đầu tiên
NXB Đồng Nai cho xuất bản, lưu hành sách và từ điển kém chất lượng(*).
Hoàng Tuấn Công/7/2016
(*)-Chúng tôi từng có bài viết chỉ ra
những sai sót nghiêm trọng trong sách "Tônvinh những người cong làm rạng danh trong các dòng họ nổi tiếng Việt Nam" (NXB
Đồng Nai-2014); "Phát hiện từ điển Tiếng Việt do môn đồ cụ Vũ Chất biênsoạn" (tức "Từ điển tiếng Việt dành cho học sinh"-Khắc Trí-Trọng
Tấn-NXB Đồng Nai-2012), trong đó, cuốn thứ hai sau đó đã bị Cục Xuất bản thu
hồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét