20 thg 11, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 14)

            
Cây kè ở Thanh Hoá
Ảnh: HTC
                HOÀNG TUẤN PHỔ

Không biết ông Khai giở trò ma quỷ gì, làm chị Phương rên rỉ, kêu đau suốt đêm. Sáng thức giấc, tôi thấy chị Phương dậy sớm nhất. Hình như cả đêm chị không nhắm được mắt. Chị nói với ông Khai, giọng thiểu não: “Em bị đau bụng suốt đêm, bây chừ hãy còn đau, xin anh cho phép em về nhà...”

            Ông Khai không giấu được bực bội: “Rõ cái đồ liền bà con gái, trong lúc người ta đang cần lại giở trò đau bộng đau bão!”

5 thg 11, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kỳ 13)

Cây trôi đình Đoài
Ảnh: TC
            HOÀNG TUẤN PHỔ


Đêm nằm trằn trọc thao thức không ngủ được, tôi nhớ lại hôm bố tôi bị bắt, dắt đi bằng sợi dây thừng, tôi lo sợ sẽ đến lượt mình. Bây giờ, nỗi sợ ấy đã xảy ra: Tôi cũng đã thành một con vật, nay buộc, mai trói, dắt đi hết nơi này đến nơi khác! Có thể đêm mai ai đó nhảy đến đấm đá cái thằng nhỏ nhất, làm chức to nhất là tôi. Chắc chắn tôi chết mất! Làm thế nào? Thôi đành chịu chứ biết làm sao? Lúc sau, tôi cố hết sức bình tĩnh tự nhủ: Lo sợ cũng không được!

"CẬY THẦN PHẢI NỂ CÂY ĐA"

Cây đa có miểu thờ bên trong ở Quảng Bình
Ảnh: Báo Đời sống & pháp luật
HOÀNG TUẤN CÔNG

Các nhà biên soạn từ điển giải thích câu tục ngữ này như sau:
- Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Cậy thần phải nể cây đa (cây đa ở bên cạnh miếu thờ thần) Ý nói: Đã phải nhờ vả người nào thì lại phải lo lót những kẻ tay chân của người ấy. Đó là cái tục gây nhiều điều tiêu cực”.

4 thg 11, 2016

GIÁP DƯƠNG XÁ (Phần 3 - BÀ CHÚA HẾN)

Sông Mã

Ảnh ST chỉ mang tính minh hoạ
      HOÀNG TUẤN PHỔ

Đất Kẻ Dàng tạo địa thế cho trấn Dương Xá thành nơi đô hội của trấn. Dương Xá tạo điều kiện cho Kẻ Dàng trở nên một vùng sầm uất bậc nhất “ba phủ Thanh Hoa”(1). Dương Xá - Kẻ Dàng nhanh chóng lớn mạnh, phình ra quá cỡ, phải đẻ thêm làng Dàng thứ hai: Dàng Hến. Dàng Bến là Dương Xá cũ, tấp nập trên bến dưới thuyền, chợ búa bán mua trăm thức. Sản vật địa phương có “Cót làng Dàng, tranh làng Đại Khối”. (Tranh lá lợp nhà). Cam Dàng, một giống cam chanh ngon nổi tiếng,.v.v…(2)

30 thg 10, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (Kì 12)

            
Những cây dừa từng chứng kiến
cuộc đấu tranh chính trị nghiêng trời lệch đất
Ảnh: HTC
              HOÀNG TUẤN PHỔ

Trời chưa sáng, mẹ tôi đã gõ cửa nhà anh Lưỡng. Nhà anh gần nhà tôi, cách một quãng đường vòng đi qua ao đình làng với ao nhà ông Mục Chức và ngõ ông Từ Chức là đến. Mẹ tôi phải đi lúc này vì nhà ông Lời chỉ cách nhà anh Lưỡng một cái ngõ. Sợ ông ấy nhận thấy lại nghi ngờ.

            Nhưng sau mấy đêm hò hét, đấu tranh, chắc ông Lời không thể thức dậy sớm. Anh Lưỡng làm công an thôn, vốn người tốt bụng, gia đình nghèo khó, bố anh là ông Kỹ làm nghề bán nước chè xanh ở chợ Nguyễn, lúc này cũng đã thức dậy sửa soạn hàng. Ông Kỹ hiền lành như đất, không để ý đến khách của con. Anh Lưỡng vui vẻ nhận lời. Nhưng vì không có quyền hành gì, nên chỉ hứa sẽ nói khéo với ông Trần Ngọc Khai, xã đội trưởng kiêm Trưởng công an xã, thương tình che chở.

29 thg 10, 2016

GIÁP DƯƠNG XÁ (Phần 2 - ĐỀN THỜ HỌ DƯƠNG)

Đền thờ Dương Đình Nghệ
                                    Ảnh: xuthanh.net
 HOÀNG TUẤN PHỔ

Làng Dương Xá thờ Dương Đình Nghệ làm thần tổ, lập đền thờ trên đất thổ cư nhà ông xưa. Trên ban thờ, chính vị Dương Tiết độ sứ, phụ thờ con trai Dương Tam Kha, con gái Dương Thị Nga. Ông bà họ Dương như vậy chỉ sinh hạ được một trai, một gái.
Sử Toàn thưCương mục chép:

23 thg 10, 2016

"CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG" (Kỳ 11)

         
Tác giả đang viết Hồi kí "Chạy trời không khỏi nắng"

Ảnh: HTC
              HOÀNG TUẤN PHỔ

               (Hồi kí viết lúc hoàng hôn)

 Bố tôi bị giải - dắt di rồi, nhà như có tang. Tượng thờ, bát hương lăn lóc, bếp núc tung toé. Ngoài sân sách vở đang âm ỉ cháy, nghi ngút khói bay lên trời, một bầu trời đầy mây âm u, xám xịt. Không ai nói với ai câu gì. Mẹ tôi lên giường nằm khèo. Chẳng biết bà đang nghĩ ngợi gì.

Anh Nậu thu dọn bếp núc, nhà cửa. Anh cũng là người siêng năng, chịu khó, nhưng thiếu tính cẩn thận, chu đáo, lại hay nghịch ngầm. Hồi anh mới về làm con nuôi, một hôm, cắt xong cái lưỡi câu để câu cá rô, anh bảo tôi: “Mi sờ coi cái lưỡi câu tau vừa cắt xong, mũi có nhọn, ngạnh có sắc không.” Tôi cầm lấy lưỡi câu đã buộc vào dây và cần xem thế nào. Lập tức anh giật mạnh cái cần, khiến tay tôi bị chảy máu, đau điếng. Anh lấy lá kinh giới nhai qua, đắp vào vết thương. Tôi bị xót giẫy nẩy lên, anh liền nhe răng ra cười khoái chí!

22 thg 10, 2016

"THEO VOI HÍT BÃ MÍA"

HOÀNG TUẤN CÔNG
          
Trong bài thơ có tên “Theo voi ăn bã mía” (cũng là dị bản của tục ngữ “Theo voi hít bã mía”) Tản Đà viết:

“Ăn mía theo voi tiếng đến giờ 
Vì chi miếng bã để trò dơ 
Rón chân những chực khi vòi nhả 
Rát lưỡi đành xơi cái ngọt thừa...

9 thg 10, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 10)

       

                HOÀNG TUẤN PHỔ
          (Hồi ký viết lúc hoàng hôn)

Có lẽ Hiển và Vũ hết sức bất ngờ khi thấy tôi về quê đột ngột, không một lời chia tay. Đúng! Chính tôi cũng bị bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ trước sóng gió cuộc đời nổi lên dữ dội trong bão táp đấu tranh(*).


          Tôi và anh Nậu về đến nhà, mẹ tôi đang nấu cơn trưa. Cảnh nhà vắng vẻ. Bố tôi như thường lệ đi chợ Muôn bán thuốc Đông y từ sáng sớm. Mẹ tôi ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Chả biết có chuyện chi, chó cắn suốt đêm văng vẳng, như có người rình mò đằng sau nhà, còn qua lại dò la trước ngõ. Chú Thuyết đã bị bắt rồi, nghe nói đưa lên huyện...”

8 thg 10, 2016

GIÁP DƯƠNG XÁ (Làng quê Dương Đình Nghệ)

Đền thờ Dương đình Nghệ ở làng Dương Xá
Ảnh: ST
     HOÀNG TUẤN PHỔ

Dương Xá là tên chữ, chữ “Dương” chuyển từ tên nôm cổ: Ràng hay Dàng, tùy theo cách phát âm rung lưỡi (R) hoặc cong lưỡi (D). Từ miền ngược đổ xuôi, sông Mã gặp sông Lương tại nơi thuộc giang phận làng Dàng thành tên ngã ba Dàng. Từ ngã ba Dàng trở xuống đáng lẽ vẫn là sông Lường tức sông Lương thì người ta gọi nhầm sông Mã, lâu ngày hóa quen, cũng như sông Sũ (tên nôm sông Lương) biến ra sông Chu. Một bài thơ khuyết danh nôm cổ tả phong cảnh xứ Dàng:

“TRỐN VIỆC QUAN ĐI Ở CHÙA”

              HOÀNG TUẤN CÔNG

Về nghĩa bóng câu tục ngữ "Trốn việc quan đi ở chùa", hầu như các nhà biên soạn từ điển đều cơ bản hiểu đúng, nhưng lại khá lúng túng, nhầm lẫn khi giải thích nghĩa đen:

          1 - “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Trốn việc quan đi ở chùa: Chê người lười bỏ nhiệm vụ của mình: Khi thủ trưởng giao cho một việc nặng thì hắn cáo ốm, trốn việc quan đi ở chùa mà”.

2 thg 10, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 9)

Tam quan đền Nưa
Ảnh: Tân Ninh Blog
         HOÀNG TUẤN PHỔ

Câu chuyện tiên thánh giữa hai bố con diễn ra đã lâu, nay nhớ lại, tôi lại muốn biết ông tiên Nưa thế nào.

          Tôi và anh Hiển bắt đầu cuộc hành trình từ sáng. Ban ngày tàu bay tàu bò cũng hay hoạt động, nhưng không sợ. Hễ chúng nó đến, chúng tôi nằm rạp xuống sườn núi giả làm hòn đá hoặc nấp sau tảng đá. Lớp học, chợ búa sợ máy bay oanh tạc chỗ đông người, còn dân đánh củi, đánh nứa vẫn rải rác leo núi trèo đèo, đi lại làm ăn như thường.

25 thg 9, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 8)

Đường vào khu vực núi Nưa-Cổ Định
Ảnh: ST
             HOÀNG TUẤN PHỔ

Trong số bạn học ở Lượng Định, người tôi thân nhất là anh Đỗ Đăng Hiển. Gọi là anh, vì anh hơn tôi vài tuổi. Hiển là con trai thứ hai ông Bản Hớn, nhà giàu nhất làng, nhưng chỉ có mươi mẫu ruộng, vì dân Lượng Định sống chính bằng nghề đan. Khi nhà anh lên thành phần phú nông, phải đưa bớt ruộng, còn lại 5 sào, gia đình cũng không ảnh hưởng mấy, bởi biết nghề thủ công. Anh trai Hiển là Đỗ Đăng Vinh, học hết đệ tam rồi thôi, ở nhà với vợ con. Hai cha con cùng làm nghề đan. Nhà không đánh được nứa, phải mua lại của người làng, chịu ăn ít, lấy công làm lãi. Làm được hàng, mẹ chồng, con dâu gánh lên bán chợ Sim, chợ Mốc (nay thuộc huyện Triệu Sơn). Cho nên kinh tế gia đình không đến nỗi khó khăn, Hiển vẫn được tiếp tục học lên.

24 thg 9, 2016

"SINH" TRONG TỪ "HI SINH" NGHĨA LÀ GÌ?

         
Mô phỏng lễ Tam sinh thời cổ đại bên Trung Quốc
Ảnh: ST
 HOÀNG TUẤN CÔNG

Khi nói và viết, hầu như mọi người Việt Nam đều sử dụng chính xác và hiểu đúng nghĩa từ “hi sinh” trong từng ngữ cảnh, giống “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) đã giảng: “hi sinh 犧牲I.[động từ] 1 tự nguyện nhận về mình sự thiệt thòi, mất mát lớn lao nào đó, vì một cái gì cao đẹp: hi sinh lợi ích cá nhân. 2 chết vì đất nước, vì nghĩa vụ và lí tưởng cao đẹp : hi sinh ngoài chiến trường. 犧牲 II [danh từ] sự hi sinh: chấp nhận mọi hi sinh”.

18 thg 9, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 7)

Đường lên đình núi Nưa
Ảnh: Phương Mai Blog
               HOÀNG TUẤN PHỔ

Tôi học xong lớp bảy (Hệ thống giáo dục phổ thông mới) trường cấp II Quảng Ninh, vào đúng thời gian gia đình tôi lên thành phần phú nông, trong nhà "quăng dùi đục không mắc"! Tôi không biết làm gì, nên xin xin thày mẹ tiếp tục học lên lớp tám (Hệ phổ thông chín năm). Cái khó duy nhất là không có tiền gạo. Thày mẹ tôi băn khoăn khó nghĩ. Nhà chú tôi không bị thành phần phú nông, không phải "đóng thuế khả năng", bồ thóc chưa cạn, chum khoai còn đầy. Bố tôi gọi chú tôi ngỏ ý vay mượn một ít. Chú tôi nói: Thế nào cũng phải cho cháu học tiếp, nhưng chuyện gạo thóc để chú lựa lời với thím tôi. Mẹ tôi bảo: "Chú để tôi bàn với thím tiện hơn. Đến tháng tư sang năm có lúa chiêm, tôi trả lại." Tính thím tôi tốt. Tối hôm ấy, mẹ tôi vay được mười đấu thóc (mỗi đấu xay được 6kg gạo). Còn nơi ăn chốn ở, cũng phải tìm nơi quen thuộc, để có thể nhờ vả được người ta.

15 thg 9, 2016

DẤU ẤN VĂN HOÁ XỨ THANH TRÊN ĐẤT NAM TRUNG BỘ

        
Danh thắng Ngũ Hành sơn
Ảnh: Du lịch Đà Nẵng 
              HOÀNG TUẤN PHỔ
Xứ Quảng xưa là vùng đất rộng dài suốt dải phía Nam Trung bộ, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi đến Khánh Hòa, Bình Thuận... Người Thanh Hóa đầu tiên đến Quảng Nam theo sử chép, là Hoàng đế Đại Việt Lê Đại Hành.

10 thg 9, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 6)

         

Cây đa làng Đoài
Ảnh: HTC
                HOÀNG TUẤN PHỔ

          Cuối năm 1947 tôi đi chăn vịt ở trại Bái Quang không ghé qua nhà ông Hẩy lần nào, phần vì trái đường, phần khác là chủ yếu: Anh Nậu không lấy chị Vượng nữa. Có lẽ do cái duyên cái số, lắm khi ông trời dở hơi trái tính không xe dây nữa chăng?

            Thời gian chăn đàn vịt gốc cho ông bố, tôi ở nhờ nhà chú Côi, liền kề nhà ông Tâm Xiềng, phía sau vườn là cánh đồng Cồn Hỏng, có con đường đất nhỏ qua Cồn Hỏng về làng Đoài, có nhà tôi ở cạnh bóng đa đầu làng.

4 thg 9, 2016

CHẠY TRỜI KHÔNG KHỎI NẮNG (KỲ 5)

               HOÀNG TUẤN PHỔ 
Đứng ở cuối làng nhìn ra cánh đồng Cồn Hỏng
Ảnh: TC


Năm 1944, Nhật đảo chính Pháp, nó tịch thu cả đại lý muối, nên ông ngoại tôi về nhà với hai bàn tay trắng. Ở nhà, tài sản ông mua sắm được chỉ có hai cái tủ gỗ đứng, đóng kiểu Tây, bên trong có cánh cửa rỗng tuếch, trên nóc bày mấy pho tượng bằng sứ: Trưng Trắc, Trưng Nhị đứng trên bành voi, tay cầm kiếm trỏ thẳng về phía trước, trông cũng đẹp; Quan Vân Trường râu dài đến rốn, ngồi giữa, Quan Bình, Trương Bào đứng hầu hai bên với thanh long đao và cây bát xà mâu. Năm lớp đệ nhất trường Hoài Văn, trưa, tối, tôi cuốc bộ về ở nhà ngoại.

"LÀNG QUÊ BÀ TRIỆU", kỳ 4 "DI TÍCH KHẢO CỔ"

Thanh kiếm được phát hiện ở
khu vực núi Nưa
Ảnh:ST
      HOÀNG TUẤN PHỔ

Năm 1962, Khảo cổ học nước ta ghi nhận một phát hiện quan trọng: trên ngọn đồi thôn Định Kim, tục gọi làng Sỏi (nay thuộc xã Tân Phúc, huyện Nông Cống) xuất lộ di tích một nơi cư trú cổ, rất lớn. Đó là địa điểm khảo cổ học Núi Sỏi. Gọi là núi theo ngôn ngữ dân gian, đúng ra Núi Sỏi hiện thấy thuộc dạng đồi, gò. Núi Sỏi hiện tại chỉ cao 19m so với mặt biển, rộng 250m, dài tới 1.000m, cách đây 2.000 năm chắc cao hơn và dài rộng hơn. Núi Sỏi cách núi Nưa khoảng 1km đường chim bay về phía tây. Di chỉ là tầng văn hóa khảo cổ thời đại đồng thau phủ kín khắp bề mặt gò đồi, từ đỉnh xuống chân, và còn lan cả ra chung quanh, diện tích gần một triệu mét vuông. (Qua nghiên cứu bước đầu là 910.000m2). 

25 thg 8, 2016

"LÀNG QUÊ BÀ TRIỆU", KỲ 3: "NHỮNG NGƯỜI KHỔNG LỒ"

Triệu Ẩu đuổi giặc Ngô
Tranh dân gian (ST) 
         HOÀNG TUẤN PHỔ

Thuở trời đất mới mở mang, vùng núi Nưa có một ông Khổng Lồ. Ông Khổng Lồ được Ông Trời giao cho việc cùng thần Núi, thần Sông xếp đặt lại núi và sông sao cho đẹp mắt mà vẫn chia đều để chỗ nào cũng có núi, có sông. Sau khi sắp đặt xong, Ông Trời rất ưng ý, nhưng con người lại không bằng lòng vì đi đứng, làm ăn đều khó khăn. Họ luôn luôn kêu trời khiến Ông Trời bị điếc tai không chịu nổi, buộc phải sai thần Núi, thần Sông sắp đặt lại để con người đi dứng dễ dàng, làm ăn tiện lợi. Thần Núi vốn tính lười nhác, kêu mệt, nằm nhoài, đánh ngủ. Thần Sông quen thói quanh co, viện lý do bận rộn, khất lần. Ông Trời đành lại gọi người Khổng Lồ làm thay thần Núi, thần Sông.