8 thg 10, 2016

“TRỐN VIỆC QUAN ĐI Ở CHÙA”

              HOÀNG TUẤN CÔNG

Về nghĩa bóng câu tục ngữ "Trốn việc quan đi ở chùa", hầu như các nhà biên soạn từ điển đều cơ bản hiểu đúng, nhưng lại khá lúng túng, nhầm lẫn khi giải thích nghĩa đen:

          1 - “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Trốn việc quan đi ở chùa: Chê người lười bỏ nhiệm vụ của mình: Khi thủ trưởng giao cho một việc nặng thì hắn cáo ốm, trốn việc quan đi ở chùa mà”.


          2 - “Từ điển thành ngữ - tục ngữ - điển tích Việt Nam” (Nhóm biên soạn Lê Văn Đức - Hiệu đính Lê Ngọc Trụ): “Trốn việc quan đi ở chùa Tìm cách tránh làm phận sự”.
           3 - “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương) giải thích: “Trốn việc quan đi ở chùa (Đừng) trốn những việc mà mọi viên quan lẽ ra phải cáng đáng để) lên chùa đi tu. Hay dùng để khuyên mọi người chớ có né tránh những công việc thuộc bổn phận của chính mình để được an nhàn”.
          4 - “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Vũ Dung - Vũ Thuý Anh - Vũ Quang Hào): “Trốn việc quan đi ở chùa (Người xưa bất đắc chí thường ẩn dật hoặc đi tu để trốn tránh việc làm quan). Tìm cách trốn tránh, thoái thác trách nhiệm của mình”.
          Theo chúng tôi, trong số các cuốn từ điển trên đây, thì Nhà ngữ học Nguyễn Đức Dương và Nhóm Vũ Dung đã hiểu lầm hai chữ “việc quan” với nghĩa việc nhà nước mà ông quan phải đảm trách, và “việc quan là những việc mà dân chúng có nghĩa vụ phải gánh vác, phục dịch vô điều kiện một khi quan trên có lệnh đốc thúc, đòi bắt. Ví như những “việc” nặng nhọc, khốn khổ của anh lính thú:  
Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan,
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai!
                                                                  (Ca dao).
          Thực tế không có chuyện vì không muốn ra làm quan, mà ông quan nào đó phải trốn vào chùa để đi tu. Trong câu tục ngữ đang xét, dân gian phê phán, nhận diện những kẻ chỉ mang danh tu hành, lánh vào cửa Phật để “trốn việc quan”, như phu phen, tạp dịch, thuế má, lính tráng, thậm chí trốn trọng tội đã vi phạm ngoài đời...nói chung. Đó là thực tế lịch sử của những thời kỳ chiến tranh loạn lạc, Phật pháp suy đồi.
          Năm 1695, Nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán đến Đàng Trong theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu. Trong “Hải ngoại kỷ sự, Thích Đại Sán đã chép về chuyện “trốn việc quan” dưới thời chúa Nguyễn như sau:
          “Mỗi năm vào khoảng tháng Ba, tháng Tư, quân nhân ra các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên thể chất cường tráng đều bắt sung quân, xiềng cổ bằng một cái gông bằng tre, hình như cái thang nhưng hẹp hơn... chưa đến 60 tuổi chưa cho về làng cùng cha mẹ vợ con, hằng năm, thân nhân đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì thế, dân còn lại đều ốm yếu tàn tật...Cha mẹ sợ con bị bắt lính, con lớn tuổi liền cho đi ở chùa, may ra được khỏi. Vì cớ ấy tăng đồ rất đông, nhưng Phật pháp cũng do đó sinh ra hỗn loạn, chẳng những thiền tông tuyệt nhiên không đếm xỉa, cho đến các việc “luật”, “luận”, cũng buông trôi chẳng chút quan tâm, đến nỗi những phường áo tràng mão ni, nết xấu tật hư còn quá dân quê nơi làng mạc.” (“Hải ngoại kỷ sự” - NXB Khoa học xã hội). 

[Đáng chú ý, cũng đoạn này, nhưng trong  sách “Xứ Đàng Trong” (NXB Trẻ - 2014), tác giả Li Tana đưa ra bản dịch rõ ràng hơn: “Cha mẹ sợ con sớm phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn tránh việc quan...” (HTC nhấn mạnh)](1). 
          Như vậy, “việc quan” trong “Trốn việc quan đi ở chùa” phải hiểu theo nghĩa [2], mà “Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) đã giảng: “Việc mà người dân phải đến cửa quan”, chứ không phải nghĩa [1], “Việc nhà nước mà quan phải làm.” (mà các nhà biên soạn từ điển đã nhầm lẫn)(2).
          Hiểu rộng hơn, “trốn việc quan” còn chỉ những kẻ không có “căn tu” mà lợi dụng Phật pháp, tín ngưỡng, biến Thiền môn thành nơi trốn tránh tai ương, khó nhọc, ngõ hầu ấm thân khi sa cơ lỡ vận, hoặc tiếp tục đội lốt từ bi để dung dưỡng mầm ác. Ấy là những thành phần mà trong “Việt Nam phong tục”, Phan Kế Bính đã chỉ mặt, đặt tên thời mạt pháp: “Vả lại chỗ Phật Đường, phần người chân tu thì ít, mà phần người trốn chúa, lộn chồng, ăn bơ làm biếng, trốn sâu lậu thuế, mượn cửa bồ đề mà nương thân thì nhiều. Ấy lại là một cái hang để chứa kẻ bậy bạ nữa”!(3).

         
                                                                          Hoàng Tuấn Công/10/2016
Chú thích:

           (1) - Nguyên văn đoạn trích trong "Xứ Đàng Trong" chất lượng dịch tốt hơn: "“Mỗi năm vào khoảng tháng ba, tháng tư, quân nhân đi qua các làng, bắt dân từ 16 tuổi trở lên...đóng gông lại bằng một cái gông hình như cái thang, nhưng hẹp hơn, để giải về phủ sung quân...Tuổi chưa đến 60 chẳng được về làng cùng cha mẹ vợ con đoàn tụ. Hằng năm, thân thích đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì cớ ấy, những dân còn lại ở nhà, toàn gầy yếu bệnh tật...Cha mẹ sợ con sớm phải đi lính, vừa lớn lên tức cho vào chùa làm sãi, hầu mong trốn tránh việc quan...”
            (2) - Nguyên văn trong “Việt Nam tự điển” của Lê Văn Đức: “việc quan • dt. Việc nhà nước mà quan phải làm : Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu (NĐM). • Việc mà người dân phải đến cửa quan : Phải việc quan, lôi-thôi không đặng”.
          (3) - “Bách khoa tri thức” (Bachkhoatrithuc.vn) đã giải thích đúng hướng: “Trốn việc quan đi ở chùa tng 1.Trước đây người ta đi tu để lẩn trốn phu phen tạp dịch 2. Tìm nơi an nhàn yên tĩnh để lẩn trốn trách nhiệm hoặc công việc nặng nhọc”. Tuy nhiên, cách giải thích chưa thật chính xác. Bởi lẽ, “ở chùa” đây không phải đều là đi tu, mà có thể chỉ là “tạm trú” chốn Thiền môn, làm sãi vãi, thủ từ, tạp dịch...Vả lại, “Trốn việc quan đi ở chùa” chỉ là hiện tượng, hoặc ở thời mạt pháp cụ thể nào đó, chứ không phải bản chất: “trước đây người ta đi tu để lẩn trốn phu phen tạp dịch”...Cũng không phải chỉ có trốn “phu phen, tạp dịch”, mà còn muôn vàn thứ việc quan và lí do khác (như chúng tôi đã nói trong bài viết).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét