HOÀNG TUẤN CÔNG
Minh hoạ "Tống Hoằng truyện" Tranh: ST |
Tin nhà ngày một vắng tin,
Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang.”
(Truyện Kiều)
Ai xui rã chút duyên kim cải,
Ai khiến rời chút ngãi tào khang...
(Ca dao)
“Tao khang” hay
“tào khang” là gì?
Sách “Tập tục đời người” (Phan Cẩm
Thượng – NXB Hội Nhà văn, 2017) giải thích:
“Trong tiếng Hán, hạt gạo là đạo (tao), vỏ trấu bọc ngoài gạo gọi là khang. Sự bao bọc này rất khăng khít, nên muốn có gạo ăn phải xay lúa giã gạo. Chữ tạo khang, Đạo khang được chỉ sự chung thuỷ của vợ chồng, nên có câu Vợ chồng là nghĩa tao khang. Ở đây ta thấy có hiện tượng người Việt dùng nguyên tiếng Trung Quốc cổ lẫn tiếng Hán Việt”.
Tác giả “Tập tục đời người” đã giảng rõ ràng như
vậy. Tuy nhiên, ở đây có sự nhầm lẫn “tao” 糟 = bã rượu, thành “đạo” 稻 = hạt gạo, rồi suy
diễn hai chữ “đạo khang”, “tao khang” theo ý chủ quan, thiếu căn cứ:
1-Nhầm
lẫn “thóc” với “gạo”:
Trong
Hán ngữ “đạo CỐC” 稻穀 mới
có nghĩa là hạt thóc, hạt lúa – thứ
mà vỏ chưa bị bóc/tách khỏi hạt (tức vỏ đang còn ôm khít lấy hạt). Còn cái gọi
là “đạo KHANG” 稻糠 mà PCT nói, nó là
vỏ trấu (đã) bong ra khỏi hạt sau khi đem xay xát, chứ không có nghĩa là “hạt gạo” và “vỏ trấu”.
Hán ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ biên - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã - 1993) giảng hai chữ “đạo khang” 稻糠 của PCT như sau: “đạo cốc kinh qua gia công thoát xuất đích ngoại xác” [稻糠 dào kāng. 稻穀經過加工脫出的外殼;礱糠], có nghĩa là: “đạo khang là vỏ ngoài của hạt lúa (tức “đạo cốc” - HTC), tách ra qua quá trình gia công xay xát”.
“ĐẠO khang” 稻糠 đồng nghĩa với “LUNG khang” 礱糠 (lung = xay, cối xay): “vỏ trấu bong ra sau khi hạt thóc đem xay” [đạo cốc kinh qua lung ma thoát hạ đích xác - 稻穀經過礱磨脫下的殼].
2-Nghĩa bóng ngược với nghĩa đen:
Những dẫn chứng
trên đây cho thấy, phải là ở dạng “đạo CỐC” (hạt lúa/hạt thóc chưa xay
xát) thì vỏ và hạt mới còn “khăng khít”. Còn đã gọi là “đạo KHANG” như
PCT viết, thì có nghĩa thóc đã xay xong; vỏ (trấu) đã đi đằng vỏ (trấu), hạt
(gạo) đã đi đằng hạt (gạo); đâu còn “sự bao bọc này rất khăng khít, nên muốn
có gạo ăn phải xay lúa giã gạo”?
Như vậy, với nghĩa
đen này thì nghĩa bóng của “đạo khang” chỉ có thể là sự chia lìa,
vợ đi đằng vợ, chồng đi đằng chồng (giống như hạt đi đằng hạt, trấu đi đằng
trấu), chứ không thể “chỉ sự chung thuỷ của vợ chồng”.
3-“Tao khang”/ “tào khang” trong từ điển tiếng
Việt:
Trong tiếng Việt
chỉ có “tao khang” hay “tào khang”, chứ không có “Đạo khang” như PCT dẫn. Bởi
vì “đạo” 稻 = gạo (bính âm: dào); trong khi “tao” = bã rượu (bính âm: zào).
“Tao khang” hay “tào khang”, là những từ khá thông dụng và được hầu hết các
sách từ điển tiếng Việt chúng tôi có trong tay ghi nhận với lời giảng thống nhất. Sau đây
xin dẫn ba sách (trong số hơn 10 cuốn) đại diện cho ba thời kỳ xuất bản (trích
lần lượt):
-Việt Nam
tự điển (Hội Khai trí Tiến đức - 1931): “tao-khang •
Bã và tấm. Nghĩa bóng: Chỉ người vợ lấy lúc còn bần hàn <> Mặn tình cát-luỹ, nhạt tình tao-khang (Kiều)”.
-Việt
Nam tự điển (Lê Văn Đức - 1974): “tao khang • dt. C/g.
Tào-khang, bã rượu và tấm mẳn. • (R) người vợ nghèo (khi trước, vợ chồng chỉ ăn
ròng bã hèm và tấm mẳn): Ai xui rã chút duyên kim cải, Ai khiến rời chút
ngãi tao-khang... (CD)”.
-Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê – Vietlex - 2016): “tao
khang • 糟糠 d.
1 [cũ] người vợ lấy từ lúc còn nghèo khó. […] Đn: tào khang. 2
[cũ] tình nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở còn nghèo khó. dứt nghĩa tao khang.
Đn: tào khang”.
Hai chữ “tao khang” 糟糠 còn được dùng để
chỉ người vợ cả; còn “cát luỹ” chỉ người vợ lẽ. Thế nên trong Truyện Kiều có câu: “Tin
nhà ngày một vắng tin, Mặn tình cát luỹ, lạt tình tao khang”.
4-“Tao
khang” trong từ điển Hán ngữ:
Trong
tiếng Hán, “tao” 糟 là
bã rượu/bã hèm, “khang” 糠 chỉ lớp vỏ trấu, hay màng cứng bao ngoài hạt
gạo, mì mạch, ngũ cốc nói chung… khi chế biến thì trở thành cám gạo.
Bã
rượu và cám gạo là phụ phẩm của rượu và quá trình xay giã, sơ chế ngũ cốc.
Người ta thường dùng bã rượu và cám gạo để chăn nuôi lợn gà. Tuy nhiên, đây
cũng là thức ăn của người nghèo đói. Trong cảnh cơ hàn của mỗi gia đình, người
phụ nữ bao giờ cũng hiện lên như một hình ảnh tiêu biểu cho đức hy sinh, chịu
khó chịu khổ, vì chồng vì con. Bởi vậy, tao
khang hay tào khang (tuỳ cách
phiên âm trong tiếng Việt) là cách gọi tắt của thành ngữ “tao khang chi thê”, chỉ người vợ từng chung cảnh nghèo khổ, từng
cùng ăn cám bã thuở hàn vi.
Hán
ngữ đại từ điển giảng nghĩa rõ
ràng hai chữ “tao khang” 糟糠 (nghĩa 2 và 3) như sau:
-“Loại đồ ăn thô kém như bã rượu, cám, mà kẻ
nghèo hèn thường dùng lúc đói khổ.” (tửu
chỉ, cốc bì đẳng thô liệt thực vật, bần giả dĩ sung cơ - 酒滓,穀皮等粗劣食物,貧者以之充饑);
-“Hậu Hán thư - Tống Hoằng truyện”: “bần tiện chi tri bất khả vong, tao khang chi
thê bất khả hạ đường”. Ý nói người vợ từng cùng chung miếng cám bã lúc đói khổ
thì không thể bỏ. Về sau dùng hai chữ “tao khang” để gọi người vợ từng chung cảnh
cơ hàn.” [nguyên văn: 後漢書-宋弘傳:“貧賤之知不可忘,糟糠之妻不下堂.”意謂貧困時與之共食糟糠的妻子不可遺棄. 後因以“糟糠”稱曾共患難的妻子].
“Tống Hoằng
truyện” mà Hán ngữ đại từ điển
trích dẫn có đoạn chép:
Tống Hoằng, tự
Trọng Tử, người quận Kinh Đào, huyện Trường An, thời Quang Vũ Đế làm quan tới
chức Đại tư không. Ông học rộng, hiểu nhiều, có tiếng nhân từ, thanh liêm.
Quang Vũ Đế có người
chị là Công chúa Hồ Dương goá chồng. Bởi thế, Quang Vũ Đế thường cùng với chị đàm luận về
các quần thần trong triều để dò ý tứ. Một bận Công chúa thổ lộ: “Uy đức của
Tống Hoằng thì quần thần trong triều không ai sánh được”. Quan Vũ Đế đáp: “Vậy
để ta nghĩ cách xem”.
Quang Vũ Đế cho gọi
Tống Hoằng đến triều kiến, đoạn bố trí để Công chúa ngồi khuất phía sau bức
bình phong.
Quang Vũ Đế hỏi
Tống Hoằng: “Ngạn ngữ có câu thăng quan đổi bạn, giàu sang đổi vợ, đó có
phải là lẽ thường tình của con người ta chăng?” Tống Hoằng bèn đáp: “Thần
văn, bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường”, nghĩa
là: “Thần nghe nói bạn bè từ thuở hàn vi không thể quên, người vợ từ hồi đói
khổ không thể bỏ”.
Như vậy, “tao
khang” hay “tào khang” nghĩa đen là bã rượu và cám gạo, chứ không
phải là “hạt gạo” và “vỏ trấu bọc ngoài”. Mặt khác, về nghĩa bóng, người ta
dùng “tao khang”/“tào khang” để ví người chồng chung thuỷ với vợ,
không quên người vợ từng đồng cam cộng khổ với mình lúc khốn khó (ví dụ: Một lời đã hứa tào khang, Trăm năm ghi tạc
nghĩa chàng, chàng ơi! - Cdao); hoặc giả lên án người chồng đã phụ bạc người vợ
từng gắn bó với mình thuở hàn vi (ví dụ: dứt nghĩa tao khang; lạt nghĩa tào
khang), chứ không “chỉ sự chung thuỷ của vợ chồng” nói chung, như
tác giả “Tập tục đời người”
phân tích.
Hoàng Tuấn Công/5/2022
Chuyện sách của Phan Cẩm Thượng thì sai sót đầy rẫy, nhất là những mục liên quan đến chữ nghĩa tàu tây. Ngay đến chuyên môn hội họa Phan Cẩm Thượng còn nhầm tranh dân gian Trẻ Con Chơi Rồng Rắn thành Bịt Mắt Bắt Dê ... Phan Cẩm Thượng thích được gọi là "nhà nghiên cứu văn hóa", hay lên truyền hình, giới nghệ thuật tạo hình rất tôn sùng về mớ kiến thức hổ lốn không đâu vào đâu, dạng như giải thích Tứ Thể=Bốn Cách Cấu Tạo Chữ Hán ...v..v ...
Trả lờiXóa飽飫烹宰,飢厭糟糠
Trả lờiXóaMuốn giải thích từ nguyên thì phải tra cứu được chữ Hán, chữ Nôm, còn học hành lôm côm râu ông nọ cắm cằm bà kia thì làm sách chi cho hại học thuật nước nhà!
Trả lờiXóaSợ nhất loại trí thức nửa mùa này mà lại giữ trọng trách nữa thì thật xui xẻo cho dân tộc
Trả lờiXóa