Nhà lá Ảnh: Làng Việt xưa và nay |
Trên trang “Làng Việt xưa và nay”, Trần Ngọc Đông
đăng bài “Không ai giàu ba họ, không ai
khó ba đời”,trích lời giải thích trong sách “Bách khoa thư làng Việt cổ truyền”
(PGS. Bùi Xuân Đính. NXB Chính trị Quốc gia - 2021). Xin trích đoạn có liên
quan “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”,:
“Câu tục ngữ chỉ sự không ổn định về đời sống
của các giai tầng xã hội trong nông thôn Việt trước Cách mạng Tháng Tám 1945.
Khái niệm “Họ” trong câu thành ngữ đồng nghĩa với từ “Đời” (hay thế hệ); không có nghĩa là dòng họ (huyết thống, tông tộc), vì dòng họ không phải là một đơn vị kinh tế…”.
Dù khẳng
định “họ” đồng nghĩa với “đời”, nhưng PGS. Bùi Xuân Đính không giải thích vì
sao. Nói đúng hơn, cách giải thích “vì
dòng họ không phải là một đơn vị kinh tế…” của ông thiếu thuyết phục, khiến
nhiều thành viên của Làng Việt tỏ ra thắc mắc, hoài nghi. Xin trích dẫn một số
ý kiến:
1-“Cứ như tôi nghĩ thì 3 họ ở đây không phải 3
đời. Mà 3 họ do chữ “tam tộc” mà ra, là họ cha, họ mẹ, họ vợ chứ nhỉ”?;
2-“Mình cũng nghĩ ba họ là nội ngoại nhà mình
và bên vợ hoặc bên chồng. Không lẽ đánh đồng “họ” với “đời”?;
3-“Tưởng ba họ là họ cha, họ mẹ, họ vợ”?…
4- Trần Ngọc Đông trao đổi lại: “Em thì nghĩ nó mang tính ước lệ. Ba họ là tất
cả các quan hệ họ hàng thân thích, ba đời thì là nhiều thế hệ nói chung không
phải cụ thể là 3 thế hệ. Theo cá nhân em thì ý nói của câu là không có gì là
toàn diện (không giàu tất cả những người có quan hệ họ hàng) và không ai nghèo
quá nhiều đời. Không phải vì ông cha nghèo thì mãi nghèo”…
(5)-Thành viên Làng Việt có ý
kiến số (1) trao đổi lại với Trần Ngọc Đông: “Thì nghĩa rộng nó là thế.
Nhưng nghĩa hẹp trên cơ sở văn tự/ngôn ngữ cụ thể cũng phải hiểu rõ đã”.
Đúng vậy. Để khẳng định “ba họ” được
hiểu theo nghĩa nào, thì phải có “cơ sở văn tự/ngôn ngữ cụ thể”, chứ không thể
suy diễn, hoặc áp đặt cho nó một nghĩa theo ý chủ quan.
Vậy, “ba họ” trong câu “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” (dị bản Ai giàu ba họ, ai khó ba đời) có nghĩa
là gì?
Đầu tiên,
ta thử tìm trong từ điển:
Về nghĩa
từ vựng thì tất cả các cuốn từ điển tiếng Việt chúng tôi có trong tay đều giải
thích “tam tộc” là “ba họ”, gồm: họ cha, họ mẹ, họ vợ, và
lấy ví dụ Tru di tam-tộc.
Trong khi đó, các sách
từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam phần lớn chỉ thu thập và giải thích câu tục
ngữ mà không thấy chú giải “ba họ” nghĩa ra sao. Riêng “Từ điển tục ngữ Việt”
(Nguyễn Đức Dương - NXB Tổng hợp TP. HCM-2010) và “Tục ngữ lược giải” của Lê
Văn Hoè (Quốc Học thư xã – 1952) giải thích rõ ràng như sau:
-Nguyễn Đức Dương: “Chẳng ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời:
Chưa từng thấy ai cả ba họ đều giàu; chưa từng thấy ai cả ba đời đều nghèo. Hay
dùng để nhắc mọi người chớ có vội buồn một khi đang nghèo mà cũng chớ có vội
mừng một khi đã giàu (vì giàu nghèo ở đời đâu phải chuyện nhất thành bất biến)”.
Lời chú của sách: “Ba họ: Họ của bản thân mình[sic], của cha mình và của vợ mình; Ba
đời: Đời của chính mình, của con mình và của cháu mình”.
-Lê Văn Hoè: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời: Ba họ là họ bố, họ mẹ và họ vợ. Ba đời là đời cha, đời con và đời cháu. Không ai giầu có cả ba họ và cũng không ai nghèo khó luôn ba đời, ý nói sự giầu nghèo không riêng gì một ai, có lúc đang giầu mà hóa nghèo, hoặc cũng có lúc đang nghèo mà nhờ làm ăn tiết kiệm, trở nên giầu có”.
Vậy đúng sai thế nào?
Thực ra, “ba họ”
trong “Ai giàu ba họ…” có nghĩa là “ba đời”.
-“Ba họ” là đối dịch từ hai chữ “tam tộc”. Mà “tam tộc”, được Từ nguyên (Thương vụ Ấn thư quán ấn hành - Trung Hoa Dân Quốc – Tục biên hợp đính bản 1940) giảng là: “Cha, con, cháu là tam tộc.” (Phụ tử tôn vi tam tộc- 父,子,孫為三族). Về “cửu tộc” (chín họ), sách này giảng tiếp: “Thân thích từ cao tổ đến huyền tôn là cửu tộc.” (Cao tổ chí huyền tôn chi thân vi cửu tộc-高祖至玄孫之親為九族).[*]
-Hán ngữ đại từ điển (La Trúc Phong chủ biên - Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã-1993) giảng nghĩa “tam tộc” (ba họ) như sau:
1-Cha,
con, cháu (Vị phụ, tử, tôn 謂父,子,孫).
2-Họ cha,
họ mẹ, họ vợ (Vị phụ tộc, mẫu tộc, thê tộc - 謂父族,母族,妻族).
3-Cha mẹ,
anh em, vợ con (Vị phụ mẫu, huynh đệ,
thê tử-謂父母,兄弟,妻子).
[….]
Như vậy về nghĩa từ nguyên, chúng
ta đã có cơ sở để cho rằng, “ba họ” trong “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” là đối dịch từ
“tam tộc”, với nghĩa: đời cha, đời con, đời cháu.
Về ngữ dụng thì trong tiếng
Việt, “tam tộc” (ba họ) được hiểu là “ba đời”; “cửu tộc” (chín họ) được hiểu là “chín đời” không phải là hiếm gặp. Ví dụ:
- Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức), hay Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị) đều ghi nhận “cửu tộc” là “Chín họ, chín đời: 1 Kỵ (cao tổ). 2 Cụ (tằng tổ). 3 Ông (tổ). 4 Cha (phụ). 5 Mình (bản-thân). 6 Con (tử). 7 Cháu (tôn). 8 Chắt (tằng tôn). 9 Chút (huyền tôn)".
-Vụ án Lệ Chi Viên, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Thập lục nhật, sát Hành khiển Nguyễn Trãi tịnh thê Nguyễn Thị Lộ, tội cập tam tộc [十六日,殺行遣阮廌并妻阮氏路,罪及三族]. Bản dịch
Hoàng Văn
Lâu (Hà Văn Tấn hiệu đính - NXB Khoa học Xã hội - 1998), hai chữ “tam tộc” được đối dịch là “ba họ”: “Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi
và vợ là Nguyễn Thị Lộ, bắt tội đến ba họ”. Cách dịch này khiến ta không biết đích xác “ba họ”
này hiểu theo nghĩa nào trong ba nghĩa trích dẫn trên đây.
Tuy nhiên, bản dịch Cao Huy Giu (Đào Duy Anh hiệu đính – NXB Khoa học Xã hội - 1971), hai chữ “tam tộc” được dịch rõ là “ba đời”: “Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến ba đời”! Dĩ nhiên, “ba đời” ở đây chỉ có thể hiểu là: đời cha, đời con, đời cháu.
Đến đây sẽ có người thắc mắc, vậy liệu có thể vế đầu “ba họ” (tam tộc) là họ cha, họ mẹ, họ vợ, với nghĩa chỉ SỐ LƯỢNG (“tất cả những người có quan hệ họ hàng” như bình luận của Trần Ngọc Đông (đã trích dẫn trên đây); còn vế sau “ba đời” là chỉ ba thế hệ? Rồi cả câu được hiểu: "Chưa từng thấy ai cả ba họ đều giàu;chưa từng thấy ai cả ba đời đều nghèo."(Nguyễn Đức Dương); “Không ai giầu có cả ba họ [họ bố, họ mẹ và họ vợ - HTC] và cũng không ai nghèo khó luôn ba đời” (Lê Văn Hoè) được chăng?
Câu trả lời
là không!
Bởi “ba họ” và “ba đời” trong câu tục ngữ đang xét đều là đơn vị chỉ THỜI GIAN, không phải
chỉ SỐ LƯỢNG. Theo đây, ba họ/ba đời
vừa có nghĩa cụ thể (đời cha, đời con, đời
cháu), mỗi đời chừng 30 năm, nhưng lại vừa mang tính tượng trưng, ước lệ, ý
chỉ sự lâu dài, mãi mãi.
Câu tục
ngữ được hiểu với nghĩa khái quát: số phận con người, giàu hay nghèo không phải là nhất thành bất biến, mãi mãi giữ nguyên, mà sẽ thay đổi theo thời gian. Bởi thế, không thể
vế đầu “ba họ” được hiểu với nghĩa số
lượng (tất cả họ hàng thân thích nội ngoại), còn vế sau “ba đời” (đời
cha, đời con, đời cháu), lại chỉ thời
gian.
Một ví dụ khác. Tục ngữ Hán
có câu đồng nghĩa “Phú bất quá tam đại,
cùng bất quá ngũ phục - 富不過三代,窮不過五服 (Giàu
không đến tam đại, nghèo không đến năm đời). “Tam đại” là “ba đời” (cha, con, cháu), đối với “ngũ
phục” là “năm đời” (Cụ, kỵ, ông, cha, và bản thân mình), đều
là những đơn vị chỉ thời gian.
Về phép cấu tạo tục ngữ, dân gian thường chọn lối nói có nhịp điệu, đăng đối chặt chẽ. Bởi vậy, "giàu" cặp với "khó"; "ba họ" đi với "ba đời" là một cách xử lý rất khéo, vừa đảm bảo ngữ nghĩa, lại có vần điệu, dễ đọc dễ nhớ. Cách nói này hiệu quả hơn nhiều so với giả định "Ai giàu ba đời, ai nghèo ba đời".
Lời dân
gian “Đất có tuần, dân có vận”, “Sông có
khúc, người có lúc”… “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, phản ánh sự
biến thiên, thay đổi theo quy luật phát triển của cá nhân, dòng họ, cộng đồng,
đất nước... Bởi vậy, dù kinh tế xã hội phát triển ra sao, “ổn định” đến mức nào
cũng không ngăn được chuyện đời cha là tỉ
phú, đời con đời cháu đi ăn mày; đời cha đi ăn mày, con cháu thành tỉ phú…Dĩ
nhiên, tỉ phú và ăn mày ở đây được hiểu là giàu
và nghèo, phát triển và suy thoái… Theo đây nhận
xét câu “Không ai giàu ba họ, không ai
khó ba đời” là “chỉ sự không ổn định
về đời sống của các giai tầng xã hội trong nông thôn Việt trước Cách mạng Tháng
Tám 1945” của PGS. Bùi Xuân Đính e rằng
khiên cưỡng.
Như vậy, PGS.
Bùi Xuân Đính đã đúng khi cho rằng, “họ”
ở đây đồng nghĩa với “đời” hay “thế hệ”, chứ không phải “dòng họ”. Tuy nhiên, ông lại sai khi giải
thích sở dĩ “họ” “không có nghĩa là dòng họ (huyết thống, tông tộc), vì dòng họ
không phải là một đơn vị kinh tế…”. Giải thích như vậy thì không có lẽ khi “họ” được hiểu là “đời”,
thì “đời” sẽ là “một đơn vị kinh tế”?
Hoàng Tuấn Công/28/4/2022
Chú thích:
* Chữ “tộc” 族 trong “tam tộc” 三族 (ba đời) được “Từ nguyên” giảng là:
- Thân thuộc [thuộc dã 屬也]
-Con cháu và những người có mối quan hệ tương
liên thân thuộc [vị tử tôn cộng tương
liên thuộc dã - 謂子孫共相聯屬也].
Theo nghĩa hiển ngôn:
- “Tam tộc” (ba họ), gồm những người có mối quan hệ tương liên,
thân thuộc là: cha, con, cháu;
- “Cửu tộc” (chín họ) gồm
những người có mối quan hệ tương liên, thân thuộc là: 1 Kỵ (cao tổ). 2 Cụ (tằng tổ). 3 Ông (tổ). 4
Cha (phụ). 5 Mình (bản-thân). 6 Con (tử). 7 Cháu (tôn). 8
Chắt (tằng tôn). 9 Chút (huyền tôn).
Như vậy, có thể hiểu, những người có mối quan hệ tương
liên, thân thuộc, này cũng chính là tương ứng với từng đời (ba đời, chín đời).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét