Răng có nọc độc của rắn hổ mang chúa Ảnh: VTC |
HOÀNG TUẤN CÔNG
“Từ
điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ-Hoàng Văn Hành Chủ biên) thu thập
vài giải nghĩa: “nanh nọc tt. Đanh
đá, hung ác và hiểm độc, thường lộ ra một cách đáng sợ. Con người gian ác, nanh nọc”.
Tuy
nhiên, “nanh nọc” là từ ghép đẳng lập. Theo đây, cả “nanh” và “nọc” đều có thể
đứng độc lập: “nanh” là nanh
vuốt (như: Có nanh có mỏ; Nhe nanh múa vuốt); “nọc” nghĩa là nọc độc (như Có nanh có nọc:
Nọc người bằng mười nọc rắn); “Nanh nọc” là nanh sắc và nọc độc, chỉ
sự hung ác, hiểm độc:
-Từ
điển tiếng Việt (Vietlex): “nanh • d. 1 răng sắc ở giữa răng cửa và
răng hàm, dùng để xé thức ăn: răng nanh ~ nanh cá sấu ~ nanh lợn lòi ~ Con
chó nhe nanh, chồm lên sủa dữ dội”;
“nọc • d. chất độc do
tuyến đặc biệt tiết ra ở một số động vật: nọc rắn”.
Một số từ điển hãy còn ghi nhận sự hợp nghĩa của “nanh” và “nọc” trong từ
“nanh nọc” như sau:
-Việt
Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến đức): “nanh-nọc •
Có nanh, có nọc. Nghĩa bóng: Hung-ác hiểm-độc <> Con người nanh-nọc.”.
-Từ
điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên): “nanh nọc • Nanh sắc và nọc độc. • ngb. Chỉ
người ghê gớm, nguy-hiểm <> phải
tránh những kẻ nanh nọc”.
Tính chất hợp nghĩa của "nanh nọc" thể hiện rất rõ trong cách giảng nghĩa của Từ điển từ láy tiếng Việt: "hung ác, hiểm độc" ("hung ác" = nanh + "hiểm độc" = nọc)
Tính chất hợp nghĩa của "nanh nọc" thể hiện rất rõ trong cách giảng nghĩa của Từ điển từ láy tiếng Việt: "hung ác, hiểm độc" ("hung ác" = nanh + "hiểm độc" = nọc)
“Nanh nọc” có cùng cấu tạo đẳng lập như “sừng
sỏ”. Tuy nhiên, "sừng sỏ" cũng là từ được Từ điển từ láy
tiếng Việt thu thập làm "từ láy" và giải thích: “sừng
sỏ tt. Được đánh giá, hay được xếp vào loại đầu đàn, lão luyện,
giàu kinh nghiệm hoặc lắm thủ đoạn. Tay
đua ngựa sừng sỏ. Sừng sỏ trong việc kinh doanh. “Ai cũng biết, bọn cướp sừng sỏ
trong vùng hay tụ tập ở nhà hàng ấy” (Tô Hoài)”.
Trong “sừng sỏ”, thì “sừng” là phần cứng mọc trên đầu làm vũ
khí tự vệ, tấn công của một số loài thú, nghĩa bóng chỉ kẻ có sức mạnh, thế lực (như Ác thì vạc sừng = kẻ ác thì sẽ bị trừng trị); “sỏ” là đầu, mỏ, chót mỏ sắc nhọn, nghĩa
bóng chỉ những kẻ mà chính Từ điển từ láy tiếng Việt giảng là “đầu đàn, lão luyện, giàu kinh nghiệm hoặc lắm
thủ đoạn” (như đầu sỏ; trùm sỏ). Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) ghi nhận: “sỏ gà • dt. Cái chót bén nhọn của mỏ con gà”. Đại Nam quấc âm tự vị (Huình Tịnh Paulus Của): “sỏ gà: cái chót mỏ con gà; buộc sỏ: dùng dây vấn cái mỏ con gà trống đá độ, phòng khi nó cắn nhau mà sứt đi”.
Có thể
gián tiếp tìm thấy nghĩa đẳng lập của “sừng sỏ” qua các thành ngữ: Có sừng có mỏ; Có sừng có gạc; Có sừng
có mỏ thì gõ với nhau:
-Từ điển
tiếng Việt (Vietlex): “có sừng có mỏ • ví người cứng cỏi, đáo để hoặc có ưu thế
hơn người: “Cánh lão Phúc nó cũng có sừng có mỏ chứ không phải dân ngu cu
đen gì mà dễ bắt nạt.” (Nguyễn Khắc Trường)”.
-Từ
điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam (Nhóm Vũ Dung): “có
sừng có mỏ [Có đầu
có mỏ; Có mồng có mỏ; Có nanh có mỏ; Có nanh có vuốt; Có nanh có nọc; Có sừng
có gạc]. Có bản lĩnh, cứng cỏi, ghê gớm; Có ưu thế đặc biệt, nổi trội hơn
người”; “có sừng có mỏ thì gõ với nhau [Có tài có ngõ thì gõ vào nhau] Tài giỏi hay không đọ sức với nhau
sẽ biết”; “có sừng thì đừng có nanh [Có sừng thì đừng có ngạnh; Có sừng thì đừng
hàm trên] (sừng: vũ khí lợi hại của trâu bò, động vật không có hàm trên,
không có nanh, ngạnh). Có ưu thế lợi hại về mặt này thì hỏng mặt kia, được cái
này thì thôi cái khác; Tai ác, ghê gớm vừa thôi”.
-Đại Nam Quấc âm tự vị: "mặt có mồng có mỏ: Mặt dữ, bộ tướng gớm ghê (thường hiểu về rắn)".
-Đại Nam Quấc âm tự vị: "mặt có mồng có mỏ: Mặt dữ, bộ tướng gớm ghê (thường hiểu về rắn)".
Như vậy,
cấu tạo đẳng lập của “nanh nọc” (có nanh
có nọc) cũng giống như “nanh vuốt” (có
nanh có vuốt); “sừng sỏ” (có sừng có
sỏ/mỏ), nên không có lí do gì xếp “nanh nọc”, "sừng sỏ" vào từ láy.
HTC/2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét