Cây khế tái sinh từ gốc rễ của cây khế mẹ trồng trước 1945 Ảnh: HTC |
Mở đầu hồi ký này, tôi đã viết:
“Năm 1953 đói vừa
Năm 1954 đói lắm…”
Từ năm 1955 thế nào?Năm 1955 bắt đầu có người chết
đói!
Năm 1956 số người chết đói
tăng thêm, tăng thêm mãi…
Kẻ xấu
số không thuộc dân nghèo mà ngược đời, lại là địa chủ, phú nông…Chính họ bị cái
đói đuổi ra khỏi làng để tha phương cầu thực, nói toạc móng giò, để đi ăn xin,
ăn mày, đúng như lời dân gian xưa đã có câu:
Ăn
mày là ai/Ăn mày là ta/Đói cơm rách áo hoá ra ăn mày!
Đến
năm 1957 đời sống nhân dân dần dần trở lại ổn định…
Năm
1954 gia đình tôi đói lắm. Nhà thêm miệng ăn. Bố tôi sau Hiệp định Đình chiến Giơ ne vơ được tha tù trước thời hạn. Từ năm 1953, anh Nậu đã lấy vợ ra ở riêng, nhà
là cái bếp cũ nhà địa chủ. Anh phải đổi họ Hoàng sang họ Lê, nhưng chỉ là mượn
tạm danh họ Lê, còn anh vốn họ gì anh cũng không biết. Làng tôi có mấy dòng họ
Lê: Lê Văn, Lê Trí, Lê Hữu, Lê Đức, Lê Quang, Lê Thế,…Anh Nậu không thuộc Lê
nào. Nhưng anh được hưởng quyền lợi thành phần bị bóc lột. Dĩ nhiên, địa phương
hoan nghênh anh, vì anh là người bị bóc lột, chứng minh kẻ bóc lột không ai
khác ngoài bố mẹ tôi đã nuôi anh làm con nuôi từ nhỏ.
Bố tôi không biết làm gì ngoài hai nghề phù thuỷ, lang y và
giao du. Cơn bão tố đấu tranh chính trị đã cuốn đổ cả nghè miếu, chùa chiền, đến
thánh, tiên, phật cũng tượng gẫy, bia tan, hồn xiêu phách lạc! Hỏi ai còn dám
cúng lễ, dám mê tín dị đoan? Còn nghề thầy thuốc? Hình như tạo hoá có lòng
nhân, đã bắt đói thì không bắt ốm. Cả làng, cả xã không thấy ai kêu đau ốm! Cho
dù có ai lỡ đau bụng nhức đầu cũng chẳng ai dám gặp mặt hỏi thuốc bố tôi. Gia
đình tôi như nhà mắc bệnh truyền nhiễm phung hủi, ho lao…cả hai thứ đều thuộc
“tứ chứng nan y” (phong, lao, cổ, lại) thời trước. Đáng tiếc, gia đình tôi có
môn thuốc phong đơn thấp khớp thần hiệu. Thời gian bố tôi bị tù giam học thêm
được nghề bắt mạch và châm cứu tinh diệu của Lương y Lê Trần Đức. Ra tù, cụ Đức
được Hội Đông y Việt Nam mời về công tác ở Trung ương Hội. Cụ viết bài nghiên cứu
đăng trên Tạp chí Đông Y, dịch sách thuốc, biên soạn các tác phẩm: “Cuộc đời và
sự nghiệp đại y sư Tuệ Tĩnh”, “Y phương ca quát”…
Mẹ tôi luấn quấn với vài ba sao ruộng còi, những thửa tốt
nhường cả cho anh Nậu. Không làm thì đói, làm thì chói xương hom! Mẹ tôi phải về
bên ngoại mượn bò cày bừa, còn đám nào thì cuốc rồi dẫm theo lối canh tác
nguyên thuỷ. Bố tôi cũng phải tham gia cuốc góc, dẫm cỏ. Còn tôi? Tôi giúp mẹ
xé bẹ kè để mẹ tôi chắp thừng buổi tối. Được dăm đôi thừng kè, loại thừng này bền
tốt lắm, tha hồ ngâm bùn nước khi cày bừa, mẹ tôi đem chợ bán. Nhưng chẳng khác
nào câu thơ Nguyễn Khuyến: Mấy năm làm ruộng
vẫn chân thua/Chiêm mất đằng chiêm,
mùa mất đằng mùa.
Mùa
màng bạch lạng, thóc cao gạo kém, không ai mua thừng làm gì, người ta có cần thắt
cổ đâu!? Biết làm gì để sống đây? Tôi mang chiếc đòn gánh tre, đôi giắng nứa,
thử xuống chợ Hội xem có ai cần gánh thuê.
Chợ
Hội đông người, cách nhà tôi 6km, không mấy ai quen biết tôi con cái gia đình
thành phần phú nông địa chủ phản động, chắc họ sẽ không thù ghét. Nhưng từ sáng
tới trưa, chẳng ai thuê mướn gì! Có lẽ người ta thấy cái thân hình thấp nhỏ,
còm nhom như tôi thì gánh vác nỗi gì! Vả chăng, bản thân họ cũng đang phải cõng
cái nghèo trên lưng, chưa biết san sẻ cho ai. Giá như tôi có thể gánh đỡ bớt
cái nghèo cho họ thì họ cũng thuê tôi thật! “Chợ Hội lắm lươn, chợ Trường lắm
cáy”. Nay thì đổi chác, chợ Hội nhiều hàng cáy, cũng lắm cói lác. Thứ vật liệu
để dệt chiếu này, nhiều người mua nhưng không ai mua nhiều, bởi họ vốn ít.
Chợ
búa nào cũng vậy, hàng quà bánh tấp nập nhất. “No đắt bói, đói đắt quà”. Các thầy
bói đã phải học tập, cải tạo rồi. Chỉ còn hàng quà, không bị dẹp bỏ nên tự do
phát triển: Bánh đúc, bánh tày, bánh dẻo (bánh cuốn) bánh lá, bánh xèo, bánh sắn,
bánh hú, bánh nếp, bánh khoai, bánh tráng,…Những ai tiêu thụ cho hết? Đó là dân
có tiền bán hàng: bán cáy, bán cá, bán lác, bán chiếu, bán đay, bán muối, bán
cà, bán đỗ, bán vừng,…toàn dân lao động đầu tắt mặt tối cả, chẳng qua bớt chút,
đỡ cơn đói lòng! Hạng người kiếm ăn không lương thiện cũng chẳng hiếm…
Vụ
đói năm Ất Dậu (1945) tôi theo mẹ đi chợ Nguyễn thấy thiên hạ bán hê hề đủ thứ,
bày la liệt dưới đất, từ bát đĩa, ấm chén, đến bàn thờ, bát hương, ngai ỷ,…Người
bán chào khách mỏi miệng, người xem thì nhiều, phần đông chỉ lắc đầu. Bố tôi kể
chuyện chợ Nguyễn còn bán cả sắc phong, cờ, biển vua ban. Ai giàu ba họ, ai khó
ba đời! Cho nên, trên tờ trích lục thời Tây có ghi câu chữ Nho: “Nhất điền
thiên vạn chủ” do chính tay ông viết (không phải tất cả), vì thời ấy ông làm
Thư ký đạc điền, Sở địa chính Thanh Hoá, nên được gọi là Ký Thuỳ, tức Thuỷ, tên
huý bố tôi. Cái biển vua ban đem bán ở chợ Nguyễn là của nhà họ Trương xã Thiên
Linh (Nay thuộc xã Quảng Yên, cạnh xã tôi). Hai chú cháu Trương Hữu Hiệu,
Trương Hữu Thiệu cùng đỗ Tiến sĩ thời Lê Trung hưng, cùng nối tiếp nhau giữ chức
Đốc đồng Sơn Nam. Hai cái biển này ghi đôi liễn đối: “Tam giáp đồng tiến sĩ-Nhất
môn lưỡng tướng công”, không phải vua ban, mà do người ta đề tặng. Nhà họ
Trương giữ mãi đến năm Ất Dậu phải mang ra chợ bán vì gia đình đói quá không
còn gì quí giá hơn để bán! Buồn thay! Chẳng có một ai mua cả. Và có lẽ nếu cho
không cũng chẳng ai chịu khó lấy hộ về chơi cái đồ “tiến sĩ”, “đốc đồng” ấy ở
thời Tây Tàu nhộn nhạo này!
Phiên
chợ ấy, mẹ tôi đưa tôi lại chào dì Len.
Dì
Len người Ghép (Ngọc Giáp, nay thuộc xã Quảng Chính, Quảng Xương) trước lấy bố
tôi làm vợ lẽ, sau ba năm không con cái, theo luật lệ thời ấy được trở về với
cha mẹ để lấy chồng khác. Nay dì đã có hai con. Ông chồng cùng làng, làm nghề
muối. Sở muối Ngọc Giáp sản xuất nhiều muối nhất Thanh Hoá. Đồn Tây đoan đóng ở
đây nghiêm cấm tư nhân sản xuất muối riêng, tất cả muối làm ra đều phải bán cho
Nhà nước, rồi Nhà nước bán lại số muối hạn chế vừa đủ gia đình dùng. Muối dì
Len bán là muối buôn, phải mua của Pháp.
Dì
Len đang đứng bán muối, tay cầm bắp ngô luộc sắp ăn. Thấy tôi, dì cười, lấy
trong bọc áo dài ra đưa cho tôi một bắp chưa bóc vỏ. Tôi cầm lấy ăn ngay, vì
tính tôi thích ăn ngô luộc. Nhà đang còn muối, mẹ tôi cũng mua thêm mấy bát để
dì vui lòng. Mẹ tôi chào dì, bảo tôi cũng chào dì, xin phép đi chơi. Tôi vừa đi
vừa ăn ngô. Bỗng ai đó cướp giật ngay lấy cái bắp ngô chạy biến vào đám đông.
Tôi sợ quá, đứng sững người, toàn thân
run lên lập cập. Mẹ tôi biết tôi yếu bóng vía, choàng tay ôm lấy tôi cùng cả
cái thúng con đi chợ mua hàng. Thấy tôi mặt mũi tái mét, mẹ tôi bảo: “Không
kinh! Hắn là đứa ăn cắp, ăn cướp thì hắn phải kinh mình. Để mẹ mua cái ngô khác
cho con. Là con trai phải mạnh bạo lên, không thì người ta cười chết!”
Hôm
nay, chợ Hội cũng bán ngô bắp luộc, món quà thôn quê tôi, thường chỉ mùa xuân mới
có. Đây là mùa trồng khoai chính vụ. Bà con nông dân tỉa thêm hạt ngô vào hông
luống khoai (với đỗ cũng vậy). Phần lớn giống ngô tẻ, hạt vàng đẹp bóng như hạt
ngọc, cho năng suất cao, nhưng luộc ăn rất cứng. Giống ngô nếp năng suất thấp,
bà con bẻ bắp lúc bánh tẻ, luộc lên đem chợ bán cho người ta làm quà, ăn mềm dẻo
thơm ngon. Loại ngô già phải nướng trên lớp than hồng, tay cầm quạt, tay cầm
xiên ngô vừa quạt vừa xoay đều bắp ngô. Mùi ngô chín thơm lừng hấp dẫn mạnh nhất
đối với phụ nữ, trẻ em. Nông dân bán ngô luộc, ngô nướng được tiền lấy cái tiêu
pha thay cho bán thóc, để dành đủ ăn đến lúc giáp hạt, thừa thì “tích cốc phòng
cơ” hoặc cho vay lấy lãi. Tâm lý nông dân ai cũng thích làm giàu “ruộng mẫu ao
liền”, “tiền rương thóc cót”. Riêng dân Nam Bộ đất đai phì nhiêu, đa số nguồn gốc
lưu tán, lưu vong, cốt đời sống no đủ, đủ no rồi ăn nhậu, vui chơi, tính tình
phóng khoáng, nhạc ca, đàn hát, là những nguyên nhân các điệu dân ca Lý phong phú hơn miền Bắc, thể loại “đờn
ca tài tử” độc đáo phát triển, dân gian mà bác học, bác học của dân gian…
Khác
hồi nhỏ, hôm nay tôi đã lớn, biết vác đòn gánh đi gánh thuê, tập làm người lớn,
không còn ai, có ai để cho tôi một bắp ngô luộc, dù cái bụng đang réo sôi sùng
sục cả gan ruột, dạ dày, lá lách…họp nhau biểu tình đòi ăn! Có tiếng hô: “Đánh!
Đánh!” Mấy người đàn ông, đàn bà xúm nhau đánh một thằng bé trạc chín mười tuổi
như tôi hồi đói năm Ất dậu đi chợ Nguyễn. Thì ra nó ăn cắp một cái ngô luộc của
bà hàng ngô! Thằng bé bị đánh túi bụi, hai tay vẫn cố giữ chặt cái vạt áo rách,
trong đó là của nuôi sống con người, mỗi hạt ngô quý hơn hạt vàng, hạt ngọc!
Càng bị đánh nó càng cắn răng mím lợi không chút kêu la. Thằng bé giỏi chịu đòn
thật! Ai đó tống một nắm đấm vào giữa mồm nó. Nó phù một tiếng, máu mũi máu mồm
tuôn ra lẫn cả những hạt ngô và lõi ngô! Tôi kinh sợ quá liền ngoảnh mặt đi!
Không phải nó gan dạ giỏi chịu đòn mà đang ăn giở miếng ngô trong mồm, phải cố
giữ lấy! “Trời đánh cũng tránh bữa ăn”! Tôi rất muốn can ngăn một tiếng, nhưng
trông bộ dạng thân hình tôi, không khéo người ta lại cho là cùng hạng xó chợ đầu
đường như nó, chỉ cần một quả đấm kèm theo cú đá đủ làm tôi ngã gục không gượng
dậy được nữa!
Thấy
thằng bé loạng choạng rồi gục xuống, người ta mới dừng tay, hạ chân. Có tiếng
ai đó nói to trong đám đông: “Thằng quỷ đói này là con địa chủ cường hào phản động,
đánh chết cũng chẳng ai thương!” Tôi rùng mình lạnh buốt xương sống đến gáy cổ,
vội vác đòn gánh ra về, bỏ cả đôi quang giắng nứa đã bị trời nắng làm cho khô
héo quắt xoắn lại giống hình con số 8, cũng là hình cái cùm sắt trên tay bố tôi
hồi đấu tranh chính trị…
(Còn nữa)
Một thời khốn nạn, khởi đầu cho những khốn nạn tiếp theo.
Trả lờiXóa