Ảnh minh hoạ: Sưu tầm |
Hoàng Tuấn Công
Xưa kia,
ngày đầu năm thường có những chú chó vô chủ, vì hoảng loạn “chạy pháo” Tết rồi
quên đường về. Đói khát, chúng lần mò vào làng tìm thức ăn. Chỉ cần mon men đến
đầu ngõ nhà ai, những chú chó lạc này sẽ được chủ nhà dụ vào, cho ăn
uống tử tế, và nếu “ưng bụng” ở lại, nó sẽ được chủ nhà sẵn lòng “cưu mang”. Ngược
lại, hễ thấy bóng con mèo lạ đến nhà, thì lập tức sẽ bị chủ nhà hò hét đánh
đuổi. Ấy là quan niệm dân gian, bất kể ngày Tết hay ngày thường “Mèo đến thì
khó, chó đến thì giàu”.
Các sách
từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam đều không thấy giải thích nghĩa đen, mà chỉ diễn
giải nội dung: “Mèo nhà khác đến nhà mình
thì khó làm ăn, trái lại chó nhà khác đến thì nhà mình sẽ làm ăn thịnh vượng [theo
mê tín]” (“Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” của Nhóm Vũ Dung-Vũ Thuý
Anh-Vũ Quang Hào); “Mèo
tự tìm tới nhà ai thì nhà ấy rồi sẽ trở nên khốn khó; chó tự tìm tới nhà ai thì
nhà ấy rồi sẽ trở nên giàu sang” (“Từ điển tục ngữ Việt”-Nguyễn
Đức Dương); “Mèo nhà khác đến nhà mình thì
khó làm ăn, ngược lại, chó nhà khác đến nhà mình thì sẽ làm ăn thịnh vượng”
(“Thành ngữ tục ngữ Việt Nam”-Bùi Hạnh Cẩn-Bích Hằng-Việt Anh); hoặc như từ điển của GS
Nguyễn Lân chỉ “giải thích” ngắn gọn “Lời
nói dị đoan không có căn cứ”!
Tuy nhiên, đã có không ít bài viết giải thích câu tục ngữ
này. Đáng chú ý là bài “Lý giải “Mèo đến thì khó, chó đến thì sang”
(kienthuc.net), dẫn ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu:
-GS.TS Ngô Đức Thịnh, cho rằng, tục ngữ bắt
nguồn từ “những câu chuyện về con chó
liên quan đến cả một triều đại của Lý Công Uẩn”. Như năm Lý Công Uẩn sinh
ra (Giáp Tuất-974), ở quê ông có con chó đẻ con sắc trắng, đốm lông hình chữ
"Vương" trên lưng. Năm Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long lại
có con chó mẹ từ núi Ba Tiêu, châu Bắc Giang, bơi qua sông Cái, rồi lên ở trên
núi Nùng, đẻ được một chó con, đến năm Nhâm Tuất, hai chó đều hóa, nơi này sau
dựng "Chính điện đài".
-Ths Vũ Đức Huynh, cho rằng, “dân
gian dựa vào đặc tính của 2 con vật này mà sáng tạo ra tục ngữ”. Ví như,
chó là con vật trung thành, có trí nhớ tốt, “khi chó đến nhà là nhà có kẻ
canh nhà, giữ của, biểu hiện của thần giữ của nên sẽ giàu có”. Ngược lại với chó,
mèo khi có ăn thì ở lại, không có ăn bỏ đi, “thể hiện sự mất của và người ta quan niệm mèo đến là mang điều xui, sự
nghèo hèn...”. Mặt khác (vẫn theo Ths Vũ Đức Huynh) còn có
sự ảnh hưởng của “trường khí”, tức “giống mèo rất khoái các khu
vực có bức xạ hay trường khí xấu. Ngược lại, con chó lại khoái các khu vực vị
trí có bức xạ, trường khí tốt”, v.v…
Điều thú vị là người Trung
Quốc cũng có câu y hệt “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu” (Miêu lai cùng, cẩu
lai phú-貓來窮狗來). Theo đó, họ quan niệm, mèo vô chủ (lưu
lãng miêu-流浪貓) tự nhiên đến nhà, là điềm gia chủ sắp đến vận bần cùng; ngược lại, chó
vô chủ (lưu lãng cẩu-流浪狗) tự dưng
đến nhà, là điềm gia chủ sẽ được giàu có. Và họ cho rằng, điều này không hẳn là mê tín. Nguyên do thời
xưa, chỉ có nhà giàu, nền nhà mới lát gạch; còn nhà nghèo nền đất thô sơ, chuột
bọ đào hang hốc trú ngụ rất nhiều. Đó chính là lý do khiến mèo để mắt tới nhà
nghèo. Trong khi nhà giàu, bữa ăn thường có thịt, mà chó thì cực thính mũi, nên
nó tìm đến nhà sung túc. Theo đó, chó hoang, chó vô chủ tự dưng tìm đến nhà ai,
tựa như một sự tiên đoán về vận tài phú của gia chủ. Tục ngữ Hán có câu “Con
không chê mẹ xấu, chó không chê nhà nghèo” (Nhi
bất hiềm mẫu xú, cẩu bất hiềm gia bần-兒不嫌母醜, 狗不嫌家貧). Vẫn
theo cách giải thích của người Trung Quốc, chó là người bạn trung thành nhất của con người. Chó sủa “wàng”, giống âm của chữ “vượng” 旺, đồng nghĩa cát tường, tài phú sẽ đến. Trong
khi con mèo kêu “miāo” (喵), giống như âm chữ “miè” 滅 (diệt); “méi” 沒 (một), đều
mang nghĩa là “tiêu tan”, “mất mát”, “chết chóc”(*). Bởi vậy, mèo hoang đến nhà
là điều tối kỵ. Theo đó, người Trung Quốc còn có câu “Chó đến thì tiền tài, mèo
đến thì tang ma” (Cẩu lai tài, miêu lai hiếu-狗來財, 貓來孝)… Trong
khi đó, dân gian Việt Nam cũng có một hướng giải thích tương tự: tiếng chó sủa
“gâu gâu”, “giâu giâu”, gần giống như “giầu, giầu”; tiếng mèo kêu “ngheo ngheo”
gần giống như “nghèo nghèo”, nên có chuyện kiêng kị. Ngoài ra, nếu như tiếng sủa của chó,
hoặc sự hiện diện, đồng hành của con chó luôn đem đến cho người ta cảm giác yên tâm,
vững tin, kể cả trong đêm tối; thì tiếng kêu, gào của
con mèo trong đêm vắng vẻ, hoặc ở những ngôi nhà hoang, lại giống như tiếng ma
hờn, quỷ khóc rợn người. Mèo có tập tính tựa như sống nửa hoang
dã. Chúng xuất hiện đột ngột, bất thình lình nhảy vụt qua tựa như những bóng
ma.
Cách giải thích dựa trên tập tính của các con vật, dù của
dân gian Trung Quốc hay Việt Nam, theo chúng tôi là có cơ sở thực tế.
Trở lại với cách diễn giải và giải thích của các nhà biên
soạn từ điển và nghiên cứu văn hoá dân gian Việt Nam.
Các nhà biên soạn từ điển diễn giải “chó nhà khác”, “mèo nhà khác”
đến nhà mình; hay “mèo tự tìm đến nhà ai”,
“chó tự tìm đến nhà ai”, theo chúng
tôi là chưa rõ nghĩa. Bởi “mèo”, hay “chó” ở đây phải hiểu là những con mèo, con chó hoang, vô chủ
(đúng như cách hiểu của người Trung Quốc là “lưu lãng miêu”; “lưu lãng cẩu”),
chứ không phải là mèo, chó của “nhà khác”.
Có nghĩa, những con mèo, con chó hoang này xuất hiện như một “thiên sứ” báo hiệu
lành dữ cho gia chủ thì mới linh. Theo đó, cũng là chó mèo đến nhà, nhưng là
chó mèo hàng xóm (biết rõ chó mèo có chủ), thì người ta có thể sẵn sàng đánh đuổi
cả hai (để tránh chúng ỉa bậy, ăn vụng…), chứ không có chuyện đón đợi, mừng rỡ.
Thế nên, dân gian có câu “Ai nuôi chó một nhà, ai nuôi gà một sân”, để tỏ ý
hàng xóm láng giềng phải nên thông cảm cho nhau, nếu chó, gà nhà này lỡ sang
nhà khác gây chuyện phiền toái là vậy.
Với cách giải thích của GS.TS Ngô Đức Thịnh, theo chúng
tôi, nội dung câu tục ngữ đơn thuần xuất phát từ quan niệm dân gian, chứ không
liên quan đến những yếu tố “cung đình” (cụ thể ý kiến “những câu chuyện về con chó liên quan đến cả
một triều đại của Lý Công Uẩn” của ông). Bởi đó là điềm “sinh thánh đế”,
liên quan đến yếu tố phong thuỷ (trong định đô ở Thăng Long), chứ không phải
chuyện tài phú, bần hàn theo quan niệm dân gian. Trong khi đó, yếu tố lịch sử
chỉ được GS.TS Ngô Đức Thịnh “lắp ghép” vào vế sau câu tục ngữ (“chó đến thì
giàu”), còn vế đầu (“mèo đến thì khó”), đã không được ông lý giải (theo nguyên
tắc, cũng phải xuất phát từ một sự tích, hay truyền thuyết lịch sử nào đó liên
quan đến con mèo). Mặt khác, GS.TS Ngô Đức Thịnh giải thích ra sao, khi người
Trung Quốc cũng có quan niệm tương tự?
Rất khó xác định người Trung Quốc đã vay mượn câu tục ngữ
của người Việt Nam, hay ngược lại. Bởi quá trình giao lưu văn hoá, hoặc đặc
điểm sinh hoạt, cư trú của các dân tộc gần nhau, có thể xuất hiện những sản
phẩm văn hoá, vật chất giống nhau. Điều đó có thể do vay mượn, ảnh hưởng lẫn
nhau, nhưng cũng có thể là những sáng tạo độc lập. Chuyện giống nhau chỉ là
ngẫu nhiên. Ví như, dân gian Trung Quốc, và Việt Nam cùng căn cứ tiếng sủa của chó,
mèo để suy đoán, (dù theo hai cách khác nhau, nhưng cuối cùng đều dẫn đến ý
nghĩa giống nhau).
Bởi thế, theo chúng tôi, câu tục ngữ “Mèo đến thì khó,
chó đến thì giàu”, chỉ có thể tồn tại, lưu truyền được ở Trung Quốc, khi nó
xuất phát từ chính sự quan sát, chiêm nghiệm của dân gian Trung Quốc về tập
tính của hai loài vật nuôi chó và mèo (giống như dân gian Việt Nam), chứ không
thể đơn thuần xuất phát từ tích truyện “Cẩu Nhi” (chỉ có ở Việt Nam).
Nhiều câu tục ngữ mang màu sắc thần bí, khó giải thích, vốn
xuất phát từ những quan sát rất cụ thể của dân gian. Tuy nhiên, vì trải qua nhiều
đời lưu truyền, điều kiện kinh tế, phong tục tập quán đã thay đổi, những nguyên
nhân cụ thể cứ lu mờ dần, rồi chìm vào màn sương huyền bí. Chuyện giải thích
cho rành rẽ không hề đơn giản. Tuy nhiên, dù đoán già đoán non, đưa ra nhiều
cách giải thích, cũng nên lựa chọn cách giải thích nào mang tính biện chứng, có
lý nhất, chứ không nên gán ghép cho dân gian một cách dễ dãi, khiên cưỡng. Câu
tục ngữ “Mèo đến thì khó, chó đến thì giàu” là một ví dụ điển hình.
Hoàng Tuấn
Công/Xuân Mậu Tuất 2018
Bài viết rất hữu ích. Vinpet cảm ơn ad vì thông tin chi tiết
Trả lờiXóaHướng Dẫn Chăm Sóc Chó Đẻ Non Chuẩn Y Khoa
Trả lờiXóa