Hình ảnh clip cô giáo dạy về từ láy "mềm mại" theo SGK Ảnh: HTC |
Mềm mại là từ được các nhà biên soạn
từ điển, nghiên cứu về từ láy, cũng như sách giáo khoa xếp vào diện từ láy.
Cụ thể, Từ điển từ láy tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên – NXB Khoa học Xã hội - 2011) thu thập và giải nghĩa: “MỀM MẠI tt. 1. Mềm và gợi cảm giác dễ chịu khi tiếp xúc, chạm phải. Bàn tay mềm mại. Tấm lụa mềm mại. “…gương mặt như đóng khung trong làn tóc đen mềm mại có đôi mắt to, sáng ngời ngời”. (Ma Văn Kháng). 2. Dịu dàng, uyển chuyển, đầy tính chất uốn lượn, gợi cảm giác đẹp. Dáng điệu mềm mại. Giọng ca mềm mại và ấm”.
Sách Hình thái học trong từ láy tiếng Việt (Phan Ngọc) phân tích rõ
ràng như sau: “Mềm” là chính tố, nghĩa là
“không cứng” và gây cảm giác dễ chịu: miếng
thịt mềm. “Mại” là láy, không xuất hiện độc lập, đi với “mềm” gây cảm giác
thú vị. Bàn tay mềm mại, cách đối xử mềm
mại. Từ Hán Việt “mại”, có nghĩa là bán, trong thương mại, mại bản là đồng
âm”.
Sự thực, mềm mại là từ
ghép đẳng lập (xét nghĩa đồng đại của phương ngữ):
-Mềm thì có lẽ khỏi phải bàn thêm, vì nghĩa từ vựng của nó là dễ nắn bóp, dễ biến dạng dưới tác động
cơ học (như tóc mềm; kẹo mềm).1
-Mại gốc Hán là một chữ có tự hình
là 邁, với âm đọc hiện thời cũng là mại.
Hán
điển và Hán ngữ đại từ điển giảng
mại 邁 có là nghĩa là lão 老; mà
lão được hiểu với số nghĩa như: tuổi tác nhiều, đã qua thời gian lâu dài, cũ
kĩ, lỗi thời,v.v…Ví dụ lão mại 老邁 (già cả); suy mại 衰邁 (già yếu).
Trong phương ngữ Thanh Hóa, mại đồng nghĩa với ải, mục,
thường dùng để chỉ những vật chất vốn
rắn, hoặc dẻo dai, như vật liệu tre
pheo, gỗ lạt,v.v… cho đến các sản phẩm làm từ tre nứa, gỗ như rổ rá, bàn
ghế, thậm chí là đồ nhựa, cao su,v.v…
nhưng trải qua thời gian sử dụng quá lâu, hoặc trải mưa nắng, đã trở nên lão hóa, mềm nhũn, dễ mủn nát, rã mục. Theo đây, trong tiếng Thanh Hóa, mại là từ độc lập trong hành chức, ví như: Cái rổ này đã mại ra mất rồi;
Chiếc chiếu bị mưa nắng đã mại, đụng
vào là mủn ra; Bó lạt này chẻ đã lâu, nay bị mại rồi, không dùng được. Theo đây,
phương ngữ Thanh Hoá còn có từ ghép đẳng lập mục mại, chỉ những vật dụng đã trải
qua thời gian quá lâu, hoặc không được chăm sóc, giữ gìn, nay trong tình
trạng mềm, mục, mủn ra.2
Tất cả các cuốn từ điển chúng tôi có trong tay (kể cả từ điển
phương ngữ), không có cuốn nào trực tiếp ghi nhận mại với nghĩa là mềm. Tra
cứu thêm trong kho ngữ liệu (do Trung tâm
Từ điển học Vietlex chia sẻ với chúng tôi), thì không có từ mục mại; tra riêng từ mại, thì có 9956 kết quả, nhưng không có
mại nào mang nghĩa là mềm, ải, hay mục ra. Tuy nhiên, nhiều cuốn từ điển đã gián tiếp ghi nhận, khi mô
tả một loài cá mình mềm có tên là mại:
-Từ điển Lê Văn Đức: “mại
• Loại cá nước ngọt nhỏ con và mềm: Cá
mại”.
-Việt Nam tự điển: “mại
• Loài cá nhỏ, mình mềm, ở nước ngọt. Cũng nói là mài-mại <> Mềm như con mài-mại, nhũn như con chi-chi. Văn-liệu: Khôn như mại, dại như vích (T-ng)”.
-Từ điển Văn Tân: “mại
• d. loài cá nhỏ, mình mềm, ở nước ngọt”.3
Đáng chú ý, trong tiếng Mường (Thanh Hóa), để chỉ sự mềm, mục,
hỏng, lão hóa của gỗ, tre, luồng, đồng
bào cũng dùng từ mại, hay mài (tùy theo cách phát âm). Ví dụ, khi
thấy cây luồng vừa to vừa thẳng, có vẻ như luồng tốt, nhưng thực chất là luồng
non, hoặc sâu, hỏng, đã qua xử lý để làm hàng, thì người Mường nói với nhau:
“Má lế, cân ni mại ôi!” (Đừng lấy,
cây này hỏng rồi!).4
Như vậy, mại là một từ
Việt gốc Hán, vốn chỉ sự già yếu, lão
hóa, lỗi thời; sau được dùng với nghĩa là mềm, mủn, mục, ải, hỏng. Hiện
nay, mại với tư cách là một từ có khả
năng độc lập trong hành chức, chỉ còn tồn tại trong tiếng Mường và phương ngữ
Thanh Hóa. Điều này cho thấy, mại là
một từ cổ, đã xuất hiện từ thời còn là Việt-Mường chung, sau đó, khi Việt -
Mường tách ra, thì với nhánh Việt, từ mại
dần trở nên mờ nghĩa, mất nghĩa trong ngôn ngữ toàn dân, và
chỉ còn tồn tại với tư cách là phương ngữ; trong khi với nhánh Mường, thì mại vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến
nay. Điều này một lần nữa cho thấy, Thanh Hóa là địa phương hãy còn lưu giữ
được khá nhiều từ cổ, mà ở những vùng khác đã bị mai một, mờ nghĩa, hoặc hoàn toàn không còn tồn tại trong đời sống.
Hoàng Tuấn Công/2023
(Trích bản thảo Viết lúc nông nhàn)
Chú thích:
1.Gốc Hán là chữ miên 綿 có nghĩa là mềm, mềm
yếu.
2.Sẽ có người thắc mắc, tại sao mại với nghĩa là mềm, bở nát ra vì mục, ải,
khi đi với mềm lại có nghĩa mềm và có cảm giác dễ chịu khi sờ đến?
Chúng tôi đã nhiều lần nói đến điều này. Với phần lớn từ ghép đẳng lập, sau khi
hợp nghĩa, thì từng thành tố sẽ không còn giữ nguyên nghĩa gốc riêng biệt, vốn
có nữa, mà nó sẽ tạo ra một nghĩa mới. Ví dụ, đối với từ ghép đẳng lập xô xát. Xô vốn có nghĩa là đẩy mạnh
cho đổ, ngã; còn xát, có nghĩa là cọ, chà, xoa
trát vào thật mạnh. Thế nhưng, khi hợp nghĩa với nhau, thì nó lại có nghĩa
là cãi cọ, xung đột, đánh nhau. Theo
đây, thông thường, với một từ ghép, thì nghĩa của nó không đơn giản là nghĩa
của từng thành tố cấu tạo từ cộng lại với nhau.
3. Chúng ta không khẳng định có phải vì loài cá này mình mềm, mà được gọi là cái mại hay không, nhưng qua giải thích của
từ điển, ít ra ta cũng thấy rằng, trong ý thức của người biên soạn từ điển, mại đồng nghĩa với mềm.
4.Ngữ liệu do Lê Văn Tách (người Mường Thanh Hóa, cựu sinh viên Khoa
văn Đại học Tổng hợp Hà Nội-K33, cung cấp. Xin chân thành cảm ơn anh).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét