Các luật sư bào chữa cho bà Lê Thị Dung trong phiên toà phúc thẩm. Ảnh: Hải Đăng, báo Lao động |
-Độc giả ĐCLH gửi TCTP:
“Nếu được, nhờ anh xem xét mấy chữ “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” trên dòng băng rôn. Có vẻ như ai đó mới bịa ra chứ chưa chắc đã có trong văn bản cổ. Xét về sự đăng đối của các từ ngữ, có vẻ ngờ ngợ. Xét về ý tứ cũng ngờ ngợ. Tất cả đều công hết thì tình người, quyền con người ở đâu? Nếu xưa không có, nay mới nghĩ ra thì sao không dùng luôn tiếng Việt bây giờ cho dễ hiểu?”.
-Bạn đọc LHH lại thắc mắc: “Chí công vô tư thì tôi nghe nhiều rồi. Nhưng
“phụng công, thủ pháp” thì lần đầu tôi nghe, và không hiểu nghĩa là gì. Đặc biệt
là “thủ pháp”, lâu nay tôi chỉ hiểu có nghĩa là biện pháp, hay cách thức nào đó.
Nhờ anh giải nghĩa giúp”.
Xin được trả lời như sau:
1-
Có phải là “mới bịa ra”?
Có lẽ độc giả ĐCLH không chú ý tới dòng chữ
nhỏ trong ngoặc đơn, phía dưới câu “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”. Theo
đây, câu này là “Trích thư của Hồ Chủ Tịch
gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc tháng 2 năm 1948”.
2 - “Có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ”
Độc giả ĐCLH “có vẻ ngờ ngợ”, và “ngờ ngợ”
là có cơ sở. Bởi “Phụng công thủ pháp”
và “Chí công vô tư” vốn là hai câu
thành ngữ độc lập, không phải là một câu hoàn chỉnh với hai vế đăng đối. Sở dĩ
trong thư gửi Hội nghị Tư pháp toàn quốc,
Hồ Chủ Tịch đã dẫn “phụng công, thủ pháp”, lại còn thêm cả “chí công vô tư”, có
lẽ muốn dùng câu sau để triển khai, nhấn mạnh, bổ sung thêm ý của câu trước. Nay
người ta trích ra, biến thành một câu khẩu hiệu, nên ta cảm thấy có vẻ trúc trắc;
ý tứ, ngôn từ trùng lặp (đặc biệt là lặp hai chữ “công”) cũng là điều dễ hiểu.
Về thắc mắc “Tất cả đều công hết thì tình người, quyền con người ở đâu?”. Xin
phán đoán rằng, ở đây dụng ý của Hồ Chủ Tịch đề cao nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Bởi thế, “tất cả đều
công hết” là có cái lí của nó. Mặt khác, về cơ bản thì thượng tôn pháp luật, không vi phạm quyền con người; ngược lại, trong thực tế, phần lớn những vụ việc
vì không thượng tôn pháp luật, nên quyền con người mới bị chà đạp. Vụ Toà
án huyện Hưng Nguyên - Nghệ An xử bà Lê Thị Dung là một ví dụ điển hình.
3-Nghĩa
của “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”
-“Phụng
công thủ pháp” 奉公守法,
nguyên gốc là câu “Phụng công như pháp” 奉公如法, xuất xứ từ Sử kí (Liêm Phả, Lận Tương
Như liệt truyện); đại để, việc liên quan đến tố tụng, xét xử (hay việc công
nói chung) thì phải tuân thủ theo pháp luật.
Chữ “phụng” 奉 trong “phụng công” có nghĩa là phụng
hành, tuân theo; “phụng công” có nghĩa là tuân theo phép công.
Đáng chú ý, trong bài “Phụng công, thủ
pháp, chí công vô tư”, báo Công lý đã
hiểu chữ “phụng” trong “phụng công” nghĩa là tôn thờ, nên đưa ra lời giải thích: “phụng công” nghĩa là tôn thờ lẽ công bằng,
tôn thờ công lý…” (congly.vn, ngày 13/4/2012). Cách giải thích này không chính xác.
Trở lại với “phụng công thủ pháp”.
Hán
ngữ đại từ điển dẫn Sử
ký, có câu “Phụng công như pháp, tắc thượng
hạ bình, thượng hạ bình tắc quốc cường […] - 奉公如法則上下平,上下平則国强” , nghĩa là “Phụng công như pháp” thì trên dưới yên ổn; trên dưới yên ổn, thì nước
mạnh [...].
Hán ngữ
đại từ điển cũng trích vở
hí kịch Bình phong hậu, của Âu
Dương Dư Thiến 歐陽予倩
(1889 - 1962), trong đó có câu “Hội trưởng
có mặt hay không có mặt, họ đều là những vị “phụng công thủ pháp”, một li cũng
không dám tuỳ tiện” [nguyên văn: 會長在與不在,
他們各位都是奉公守法, 絲毫不苟的].
Theo đây, chúng ta hiểu “phụng công thủ pháp”, là thượng
tôn pháp luật, người thực thi không bị tác động hay chịu ảnh hưởng của bởi
bất cứ điều gì.
-Còn câu Chí
công vô tư 至公無私,
vốn trong sách Trung kinh, chương Thiên
địa thần minh (忠經‧天地神明) của ông Mã Dung 馬融(79—166)thời
Đông Hán: “Trung giả, trung dã, chí công
vô tư - 忠者,中也, 至公無私
(Trung chính là không thiên lệch, chí công vô tư). Hiểu theo nghĩa hẹp (lĩnh vực
pháp luật) thì câu này có nghĩa là hết sức
trung chính, công bằng, không thiên lệch; hiểu theo nghĩa rộng, là hết lòng vì việc chung, không vì quyền lợi
riêng.
4- “Thủ
pháp” này là “thủ pháp” nào?
Với câu hỏi của độc giả LHH.
Quả tình, hiện nay trong tiếng Việt, “thủ pháp”
手法 thường được hiểu với
nghĩa như từ điển của Hoàng Phê giảng là “cách thức để thực hiện một ý định, một
mục đích cụ thể nào đó. thủ pháp nhân hoá
trong thơ ~ gây cười bằng thủ pháp chơi chữ. Đn: biện pháp, phương pháp”. Ở
đây, chữ thủ 手 (nghĩa gốc là cái tay), có nghĩa là kĩ thuật,
kĩ xảo…
Còn thủ
pháp 守法 trong “Phụng công thủ
pháp”
奉公守法, chữ thủ 守
lại có nghĩa gốc là bảo vệ, giữ gìn; ở
đây được hiểu là tuân thủ, tuân theo;
thủ pháp 守法 là giữ và làm đúng theo pháp luật.
Trong Hán tự, với những trường hợp đồng âm, như
thủ pháp 手法 (cách thức) và thủ pháp 守法 (tuân
theo luật pháp) đã có tự hình để phân biệt. Trong khi với chữ quốc ngữ, phải cần
đến ngữ cảnh. Và đôi khi ngay cả căn cứ vào ngữ cảnh, cũng xảy ra những điều hết
sức mỉa mai.
Ví dụ, “thủ pháp”, ngoài nghĩa là biện pháp, phương pháp (viết với tự hình 手法); tuân theo pháp luật (viết với tự hình 守法), thì thủ pháp 手法 còn một nghĩa nữa là mưu mô, thủ đoạn, ngón đòn, trò gian trá; đối nhân xử thế một cách không chính đáng, mà Hán điển đã giảng và chú tiếng Anh là “trick” [ nguyên văn 手法: 权术; 待人处世的不正当方法 – trick]
Những gì đã và đang xảy ra trong vụ án bà
Lê Thị Dung, khiến người ta đặt ra câu hỏi, vậy Toà án huyện Hưng Nguyên đã hiểu
“thủ pháp” viết bằng hai chữ 守法
(tuân theo luật pháp),hay thủ pháp 手法, hiểu theo nghĩa âm mưu, thủ đoạn, ngón đòn, trò gian trá; đối
nhân xử thế một cách không chính đáng?
Hoàng Tuấn Công/6/2023
Trong vụ án bà Dung, rõ ràng kẻ làm quan tận dụng tối đa quyền và luật định để trả thù. Trong vụ án Tịnh Thất Bồng Lai, người ta cố tạo ra bằng chứng loạn luân, còn vụ Hồ Duy Hải, người ta mua luôn dao ngoài chợ về làm vật chứng gây án.
Trả lờiXóaVậy “Phụng công thủ pháp” là một thứ đặc quyền cho kẻ làm quan. Cái khung của luật pháp không là trị để làm gương hay giữ gìn phép nước mà là trị để diệt mà giữ gìn cái thế của kẻ cầm quyền.
—-
Một lần, tôi được kể lại rằng, em một người bạn trúng tuyển vào đại học công an phải ra tận Hà nội học. Hết một học kỳ đã bỏ học vì lý do sau: mặc dù người ta nói giai cấp công nông là nòng cốt của đảng, nhưng trong trường người ta dạy rằng hai giai cấp này phải bị trị vì họ dốt nát và cứng đầu không thể giáo dục được cho nên chính họ là bộ phận cho bất ổn của chế độ. Nghe như vậy, người bạn này thấy chính cha mẹ ông bà mình bị liệt vào thành phần “bất ổn “ nên bất mãn mà bỏ học.
Từ đó hiểu ra câu “Đảng ta là đảng cầm quyền” là một thủ pháp.