Hoàng Tuấn Công
Cứ mỗi lần đọc lại "Nhớ rừng" tôi lại nghĩ vẩn vơ: Dường như bằng khả năng đặc biệt nào đó, ông Thế Lữ đã hiểu được ngôn ngữ của vị Chúa sơn lâm “sa cơ lỡ vận”. Và qua chấn song sắt, Ngài đã nhờ ông chép lại toàn bộ bài thơ có một không hai này để gửi đến loài Người. Thế Lữ chỉ chú thêm với độc giả một dòng ngắn gọn: “Lời con hổ ở vườn bách thú” dưới tiêu đề bài thơ “Nhớ rừng” mà thôi. Bằng không, tôi cũng ngờ rằng, Thi sĩ tài hoa này từng có “phút giây hoá hổ” trong kiếp bị giam cầm, tù ngục. Và khi trở lại làm Người, ông đã “kiếm được” những lời thơ bất hủ đó. Nếu không, tại sao tôi lại được đọc những “lời tự sự” của một Ông Hổ bị “sa cơ nhục nhằn tù hãm” hay đến vậy ? “Hổ” đến vậy ? !
Bài thơ “Nhớ rừng” (1936) của Thể Lữ được xem là tâm sự của một tầng lớp người chán ghét cảnh tù túng và những “tầm thường giả dối”. Họ đau khổ trong cảnh ngục tù thân xác, tư tưởng, muốn phá bỏ gông cùm xiềng xích để về với thế giới tự do, nhưng đành bất lực, đắm chìm trong quá khứ kiêu hùng, bế tắc không lối thoát.
Mỗi lần nhìn thấy hình ảnh hổ oai hùng, ngạo mạn, thung dung giữa “cảnh sơn lâm bóng cả cây già” hay đang “nằm dài trông ngày tháng dần qua” tôi lại thấy câu chữ trong bài thơ dậy sóng theo từng bước chân của Ngài. Dưới con mắt của Chúa sơn lâm, những kẻ
đang nắm vận mệnh của Ông trở nên bé nhỏ, tầm thường, đáng thương hại, đáng
khinh bỉ làm sao ! Họ đáng khinh, đáng ghét, đáng thương bởi họ bé nhỏ mà “ngạo
mạn”. Không hiểu gì về thế giới tự nhiên, quy luật tự nhiên, “dương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm”: