Phong cảnh làng quê xã Quảng Hoà Ảnh: HTC |
(Kỳ 22)
Đến giờ phát cơm trưa, mỗi tù nhân một nắm không thể gọi là to và một nhúm muối trắng. Ít người có bát, phần nhiều cầm nắm cơm trên tay, bẻ ra ăn dần và chấm với muối trắng đựng trên mảnh lá đa khô do trại phát. Bụng tôi mặc dù đói cồn đói cào, cố gắng lắm cũng chỉ ăn hết nửa nắm cơm, còn nửa nắm cho anh Vinh. Anh ăn cơm tù đã quen nên xơi ngon cả nắm cơm. Anh Vinh chưa kịp ăn thêm đã thấy ông Ha mò lại tụt ngay quần ngồi xuống miệng nồi, hỏi nhỏ tôi:
-Cơm mi ăn chắc không thể hết, còn lại ở mô rồi?
Anh
Vinh đưa cả nắm cơm của tôi cho ông Ha. Ông đón ngay lấy, xoay mặt úp vào tường,
một tay ôm bụng, một tay cầm nắm cơm vừa rên hừ hừ vừa nhai nhồm nhoàm…
Sau bữa cơm sáng, từ 12 giờ đến 1 giờ chiều, tù nhân được
phép ngủ trưa 60 phút. Tất cả lại phải ngồi im lặng bên nhau, có miệng như câm,
không được hé răng nói với nhau nửa lời!
Năm giờ chiều, Ban trực rúc còi cho phép đi đổ nồi. Ban ngày
ít hơn ban đêm, chỉ có chừng nửa nồi, một mình tôi có thể bưng bê đi được. Anh
Vinh nhắc tôi nhớ lấy quần áo. Đổ nồi xong đến giờ phát cơm chiều. Vẫn như bữa
trưa. Theo lời anh Vinh, đến chủ nhật mới đổi bữa: mỗi người một suất rau muống
độ mươi ngọn già, luộc đầy hơi khói thâm sì, dai ngoách và một quả chuối tiêu
to bằng ngón chân cái. Anh em trong này ăn cả vỏ, nhiều người khỏi bệnh kiết nhờ
cách ăn của kẻ ăn mày ăn mót này.
Bụng tôi đói veo đói vắt, cứ ào ào sôi từng cơn một, nhưng
cầm nắm cơm với nhúm muối trắng lại thấy đắng chát trong cổ họng, lòng càng xót
xa cay đắng. Rồi cũng phải ăn, không ăn chết đói ai thương tôi? Chỉ có mẹ tôi
thương tôi nhất và đang đỏ mắt mong chờ con, đứa con độc nhất của bà.
Anh
Vinh bảo tôi:
-Thôi
ăn đi, nghĩ ngợi mà làm gì? Chúng ta phải sống chứ!
Tôi
vâng, tay trái gạt nước mắt, tay phải cầm lấy nắm cơm. Đang lúc sắp bẻ nắm cơm,
bỗng thấy có tiếng gọi tên tôi ngoài hè. Cánh cửa buồng mở, một khuôn mặt ló
vào, sau khi nghe tiếng dạ to của tôi. Tôi nhận ra ông cán bộ trực văn phòng
Toà án tỉnh. Ông bảo tôi mang theo tư trang ra ngoài. Tôi mừng quýnh, nhưng lại
ngờ tai mình nghe lầm, đứng sững người. Ông cán bộ văn phòng vẫy tay về phía
tôi. Anh Vinh cầm bộ quần áo mới giặt của tôi và đẩy nhẹ tôi một cái: “Đi đi!”.
Tôi liền ném nắm cơm vào lòng anh Vinh, cùng cái quần lót của tôi chưa kịp thay
để trả lại quần anh tôi mượn hồi sáng. Tôi cố len bước qua các bạn tù, khôn xiết
cảm động, không nói nổi lời chào từ biệt.
Ông cán bộ văn phòng dẫn tôi đến một nhà dân và căn dặn: Cấp
trên cho tại ngoại, không được bỏ trốn về nhà hay đi đâu xa, để có lúc các ông ấy
cần gọi đến phải có mặt ngay! Rồi ông cán bộ gọi một người chừng hơn 30 tuổi: “Tên này là Hoàng Tuấn Phổ tại ngoại ở đây với
các anh. Các anh có 5 người, thêm tên này là sáu. Từ mai đến nhà bếp lĩnh thêm
một suất ăn. Nếu thấy hắn đi đâu vắng phải báo cáo ngay với cán bộ”.
Tôi biết mình chưa được tha, lòng cảm thấy buồn thiu, nhưng
lại nghĩ thế này cũng sướng gấp vạn lần cái nhà giam tù nhân hay phạm nhân kia!
Tuy vậy, vốn tính cả nghĩ, hay lo xa, tôi nghĩ, tôi lo biết đâu có ngày mình lại
trở lại…Tôi không dám nghĩ tiếp nữa. Chợt nhớ lời ông Ha, vụ án Liên tôn do Tuệ
Quang, Tuệ Chiếu cầm đầu sắp kết thúc, ông Ha sẽ được tha, huống chi kẻ chưa
ráo máu đầu như mình…Tôi tạm yên tâm. Vâng, tất cả đều tạm thời, ở đời có gì
mãi mãi được đâu! “Chữ nhẫn là chữ tương vàng”, đã biết là “tạm” thì phải “nhẫn”,
phải chịu đựng để vượt qua vạn trùng ba của bể khổ!
Người được cán bộ giao trách nhiệm bảo tôi: “Tao là Hà Công Cận trước làm Phó Chủ tịch
huyện Bá Thước, bị đấu tố nên bị bắt giam một thời gian rồi được tại ngoại. Mày
ở đây với tao là tốt rồi. Đêm nay mày ngủ chung một giường với tao. Tất cả có 6
người, chỉ một cái giường, 3 người nằm giường, 3 người trải chiếu ngủ đất, ăn
thì ăn chung, chia đều, không phân biệt…À mày đã ăn gì chưa? Chưa ăn thì còn ít
cơm nguội với một con cá khô mắm”.
Còn hai miệng bát cơm nguội với một con cá khô ướp muối,
tôi chén tất rồi ra vại uống một gáo nước lã, thế là cái bụng no căng! Người ta
nói: “No cơm ấm cật, rậm rật mọi nơi”, còn tôi lúc này buồn ngủ quá chỉ muốn
lăn quay ra giường. Tôi chợt nhớ mình chắc khác con bọ hung chui ra từ đống
phân, ngửi tất cả quần áo thấy cái gì cũng khai thối, hôi hám. Tôi nói rõ lý do
với anh Cận xin được nằm riêng dưới đất. Nhưng anh Cận cười: “Thì chính tao
cũng từng phải như mày, cũng đã từng làm cái con bọ hung thôi!” Tôi cảm ơn lòng
tốt của anh Cận, xin được trải chiếu nằm dưới đất. Thế này còn sướng bằng vạn
đêm qua ngủ trên nền đình bê bết phân người trộn nước tiểu, không một manh chiếu
rách! Anh gật đầu: “Thôi kệ mày!”.
Năm người ở chung một nhà, toàn anh em dân tộc thiểu số: 3
Thái, hai Mường, thuộc các huyện Quan Hoá, Bá Thước. Đa số họ ít nói, lầm lỳ cả
ngày. Khi nói chuyện, anh em dùng tiếng dân tộc, tôi cứ như “chó Tàu nghe kèn”!
Có một người cùng lứa tuổi với tôi. Anh tự giới thiệu với tôi: Mình tên là Hà
Văn Tam ở chòm Sãi, xã Phú Lệ, huyện Quan
Hoá. Anh bị bắt vì có một người Thái bị Tây bắt cóc, huấn luyện mấy
tháng làm biệt kích thả dù xuống Phú Lệ. Nó bị bộ đội truy lùng, sợ chết chạy
trốn vào nhà anh xin ẩn nấp. Bộ đội khám xét bắt được nó, bắt luôn cả anh giải
lên tỉnh…Anh bị bỏ tù một thời gian rồi được tại ngoại hậu cứu.
Vậy thì anh Hà Văn Tam được “tại ngoại hậu cứu”, tôi được
“tại ngoại” có lẽ cũng để “hậu cứu”…Tôi tắc lưỡi: “Lo nghĩ xa hay gần cũng chả
được việc gì. Thôi “mưa lúc nào mát mặt lúc ấy”, đêm nay hãy ngủ thông một giấc
đến sáng cho mặn này bõ lúc nhạt xưa…Những tưởng sẽ đánh một giấc ngon, nào ngờ
đêm ấy tôi cứ mơ mơ tưởng tưởng mình đang nằm bên nồi vệ sinh, hết người đái
vào lưng lại có kẻ ỉa cả lên đầu mình, rồi cuối cùng phải đầu thai làm kiếp con
bọ hung! Nhiều người tin chắc tôi kiếp trước phạm tội tày đình như Lý Thông chẳng
hạn. Có ai tò mò muốn biết tội gì thì bọ
hung tôi lắc đầu. Quả tình cũng không biết đầu xuôi đuôi ngược thế nào cả!
Cơn ác mộng ấy sao mà nghiệm thế. Tôi không tin rồi cũng phải
tin, vì nó dần dần thành hiện thực, không đội phân thì đội đất, đất sạch hay đất
bẩn đều phải đội tất! Thì “Đời là thế” nên “đầu tôi là thế!”. Nói cho cùng, làm
trai ở đời phải “đầu đội vai vác” có gì lạ?
Ở đây dậy sớm hay dậy muộn chẳng hai bắt. Nhưng anh em dậy
cả, mình không thể nằm liều, cứ lù lù một mình một chiếc chiếu dưới đất, chướng
lắm! Anh Cận xuống bếp lĩnh thêm gạo, rau, mắm. Bốn anh ra sông mò hến. Tôi
không biết bơi lội, ở lại trông nhà. Chừng quá nửa buổi, mọi người về, vào bếp
nấu cơm ăn với canh hến. Bữa cơm chiều cũng vậy. Hôm sau trời mưa, các anh bắt
cóc làm canh. Tôi không quen món này, nghĩ đến cóc đã thấy nôn mửa, trong khi
ai nấy đều ăn uống ngon lành.
Anh Cần hỏi tôi:
-Ở
dưới xuôi nhà mày ăn thịt cóc thế nào?
Tôi lắc đầu:
-Nhà
tôi không ăn bao giờ. Vì “con cóc là cậu ông trời”, trời nắng lâu, nó chỉ cần
nghiến răng kêu mấy tiếng kèn kẹt, ông trời phải làm mưa ngay!
Anh Cận cười:
-Lạ
nhỉ! Tao ở nhà gác. Hễ thấy con cóc nào trèo thang lên đều bị đuổi xuống hết.
Chúng sống ở dưới góc chuồng trâu bò, những chỗ tối om tha hồ ăn muỗi.
Cứ sống cảnh nhàn nhã như vậy, toàn nói chuyện rừng suối, bắn
gà rừng, săn hươu nai, bắt ốc núi…
Tuần sau, tôi được cấp trên gọi. Một ông độ ngoài năm mươi,
mặt to, đen, ngồi bàn giấy, hỏi giọng nghiêm khắc:
-Mày
biết tội mày chưa?
Tôi không cần suy nghĩ, đáp
ào đi cho xong:
-Dạ
thưa ông, tôi biết rồi ạ!
Ông ấy vặn:
-Mày
nói biết cái gì?
Tôi không úp mở:
-Dạ
thưa tôi biết tội ạ!
Ông ấy gật đầu:
-Được!
Tạm tha cho mày về quê, khi cần sẽ gọi. Muốn đi đâu phải xin phép chính quyền
xã.
Rồi ông ấy đưa cho tôi một cái giấy đi đường.
HTP/2019
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét