2 thg 7, 2021

THÀNH ĐÁ KHÔNG BẰNG DẠ NGƯỜI !

 

Cổng phía Nam thành Tây Đô
Ảnh: ST
            HOÀNG TUẤN CÔNG

Thành đá không bằng dạ người Thành (xây bằng) đá cũng chẳng (bền vững bằng những thứ được ghi giữ lại trong) lòng dạ con người. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Những gì được người đời ghi giữ trong lòng mới là những thứ lâu bền đích thực”.

          Đó là giải thích của Nguyễn Đức Dương trong “Từ điển tục ngữ Việt” (NXB Tổng Hợp TP. Hồ Chí Minh – 2010).

Nguyễn Đức Dương hiểu sai nghĩa đen nên giảng sai luôn nghĩa bóng. Ông đã lầm “thành đá” ra “bia đá”, rồi liên tưởng đến câu “Trăm năm bia đá còn mòn / Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ” chăng?

Thực ra, “thành đá” ở đây ví với sự xây đắp, củng cố lực lượng để bảo vệ cơ đồ của một triều đại hoặc một thể chế, một quốc gia. Nhưng quân đội lớn mạnh, thành cao, hào sâu bao nhiêu chăng nữa mà không thu phục được nhân tâm, không được ủng hộ bởi lòng dân, lòng trời, thì triều đại, thể chế, quốc gia ấy không những khó có thể đứng vững, mà còn sẽ nhanh chóng sụp đổ, nhường chỗ cho một triều đại, thế lực mới, thậm chí mất cả giang sơn vào tay ngoại bang.

Có lẽ câu tục ngữ tổng kết từ bài học lịch sử cách đây hơn nửa thiên niên kỷ.

-Hồ Quý Ly trong tay có tất cả: giang sơn gấm vóc, quân đội hùng mạnh, thành cao, hào sâu... Nhưng “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà / Để trong nước lòng dân oán hận”[1] Khi nhà Minh lăm le xâm lược, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã sớm bày tỏ sự lo ngại với Thượng hoàng Hồ Quý Ly: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo”.

Một đoạn thành đá
Ảnh: ST

Hồ Nguyên Trừng giăng xích sắt trên sông, dựng phòng tuyến trải dài mấy trăm dặm quyết tâm chống giặc...Nhưng rồi tất cả thành luỹ,, phòng tuyến ấy đã lần lượt và dễ dàng tan vỡ trước sức tấn công ào ạt của quân Minh. Họ Hồ bỏ Kinh đô, lui dần, lùi dần về Thanh Hoá. Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly, Hoàng thượng Hồ Hán Thương, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng,... đã không dám thủ thành chiến đấu. Cha con họ Hồ bỏ cả cơ đồ Đại Ngu, bỏ cả Tây Đô thành đá sừng sững có một không hai... trốn chạy vào vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Nhưng rồi giặc Minh cũng đuổi kịp. Chỉ có bảy thằng giặc quèn mà đủ sức trói cổ một ông vua oai trùm thiên hạ - Thái thượng hoàng Hồ Quý Ly - giải về Kim Lăng kinh đô nhà Minh, cùng với tất cả anh em con cháu họ Hồ lần lượt bị bắt sống sau đó.

Đền thờ Trung túc vương Lê Lai
Ảnh: ST

-Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa khi đất nước đã rơi vào tay giặc:

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/Chính lúc quân thù đang mạnh./... Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu…/Khi Linh Sơn lương cạn mấy tuần / Lúc Khôi Huyện quân không một đội...”.[2]

Nhưng Lê Lợi được lòng trời, lòng người. Khắp vùng miền Tây Thanh Hoá-Nghệ An, không ở đâu in dấu chân nghĩa quân Lam Sơn mà không lưu giữ những truyền thuyết về sự che chở tài tình của thần linh, mưu trí của dân chúng, giúp Lê Lợi và nghĩa quân bao lần thoát chết trong gang tấc trước sự truy đuổi ráo riết của giặc Minh. Đặc biệt, khi Lê Lợi bị vây hãm ở Trịnh Cao, Lê Lai liều mình cứu chúa, giả xưng là Chúa Lam Sơn, dẫn 500 quân cảm tử xông vào trại giặc tả xung hữu đột để mở đường thoát cho Chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân.

“Quân lính một lòng phụ tử”, trải mười năm nếm mật nằm gai, Lê Lợi cùng đại quân từ Nghệ An, Thanh Hoá, tiến dần ra Bắc, lần lượt phá luỹ, vây thành, hạ trại, quét sạch giặc Minh khỏi bờ cõi, thu lại giang sơn gấm vóc Đại Việt.

Bài học lịch sử “Thành đá không bằng dạ người” đến hôm nay vẫn còn giá trị.

                         HTC/7/2021

 

Chú thích: [1]; [2] trích “Bình Ngô đại cáo”.

 

1 nhận xét:

  1. Kiến giải uyên bác, thuyết phục. Cám ơn HTC. Đặc biệt, càng minh định tục ngữ, thành ngữ Việt không có tính đa nghĩa.

    Trả lờiXóa