HOÀNG TUẤN CÔNG
Nhà nghiên cứu văn hoá, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm là tác giả sách “Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Trong đó, ông quy cho văn hoá Việt Nam cái gọi là “bản chất âm tính”, rồi hầu như mọi hiện tượng xã hội đều được giải thích xoay quanh nó. Trong tham luận “Xây dựng văn hoá học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”[1], mục “2. Các mô hình văn hoá học đường”, GS. Trần Ngọc Thêm viết:
“Văn hoá Việt Nam truyền thống thuộc loại hình âm tính, trọng tĩnh điển hình. Do vậy, văn hoá học đường Việt Nam truyền thống thuộc loại hướng đến xã hội ổn định”.
Đến
mục “3. Để có con người chủ động”,
GS. Trần Ngọc Thêm cho rằng, “loại hình
âm tính, trọng tĩnh điển hình” của người Việt Nam thể hiện qua “lễ hội Kỳ Yên” và cách đặt “tên đất tên làng”. Ông viết:
“Xã hội Việt Nam truyền thống
lấy nghề nông trồng lúa nước làm sinh kế, lấy văn hoá ưa ổn định làm nền tảng.
Người dân Việt Nam quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc. Lễ hội thường niên ở các
làng quê Việt Nam là lễ hội Kỳ Yên (= ‘Cầu An’). Rất phổ biến là các tên đất,
tên làng thể hiện ước vọng về một cuộc sống yên ổn. “Từ điển địa danh văn hoá
và thắng cảnh Việt Nam” ghi nhận 138 địa danh chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên”
(Nguyễn Như Ý, Nguyễn Thành Chương, Bùi Thiết, 2004: 1158, 1163, 1215). Việc
cung cấp một nguồn lực đảm bảo cho sự ổn định định này là người thừa hành (người
công cụ). Người thừa hành là con người thụ động, yêu cầu này rất phù hợp với bản
chất âm tính của văn hoá Việt Nam […] Bản chất âm tính của văn hoá và người thừa
hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ (Trần Ngọc Thêm 2016:
349 – 352)”.
Chỉ
trong một đoạn viết ngắn, nhưng GS. Trần Ngọc có nhiều điểm nhầm lẫn, suy diễn:
1-Kỳ yên không phải là “lễ hội”:
Lễ
kỳ yên bản chất là lễ tế, không phải “lễ hội”. Bởi vậy, dù xưa kia đã có nơi
bày trò hát xướng, nhưng đa số không có phần “hội” mà chỉ có phần “lễ” với nghi
thức lập đàn cầu cúng, tổ chức trong phạm vi hẹp của làng xã, theo kiểu “chuông
làng nào làng ấy đánh, thành làng nào làng ấy thờ”. Trong khi với lễ hội, thì bên
cạnh phần lễ bao giờ cũng phải có phần
hội, thu hút khách thập phương tới dự cuộc vui chung.
2-“Kỳ
yên” không phải là cầu cho “ổn định”:
Lễ kỳ
an hay kỳ yên không phải là cầu
cho “ổn định” (với nghĩa “thụ động”, “bảo
thủ”, không có biến chuyển, thay đổi nói chung), mà với mục đích tống tiễn
ôn hoàng dịch lệ gây chết chóc đau thương, đem lại bình an cho xóm làng.
Sách “Việt
Nam phong tục” (Phan Kế Bính) mục “Lễ kỳ an” viết: “Vào khoảng cuối Xuân đầu Hạ, nhiều
nơi làm lễ kỳ an. Vì mùa ấy thường có dịch khí, tục tin là việc quỉ thần, cho
nên cúng cấp để cầu cho dân làng được yên lành”.
Trong
lễ kỳ yên, người ta lập đàn cúng tiễn thần Ôn, hay Ôn chúa. Khi tiễn, thầy phù
thuỷ tay cầm nắm hương hoặc bó lửa, thư phù niệm chú, tay cầm ấn quyết triệt
lộ, tiễn ra khỏi đầu làng, đầu chợ, ngã ba, ngã bảy mới đốt, nghĩa là tống đi
cho xa, kẻo sợ ôn dịch ở quanh quẩn trong làng. Còn như bất thời có dịch khí
lưu hành, dân làng nghe có nhiều người chết, thì mua vàng hương hoa quả thiết
đàn giữa sân đình, cúng tiễn ôn quan, gọi là lễ tiến thảo (Phan Kế Bính –
sách đã dẫn).
Vì
lễ kỳ yên là lễ tống tiễn ôn hoàng
dịch lệ, nên người ta còn gọi là lễ cầu
mát, “tống ôn, tống gió, lập đàn-tràng cúng vào đầu mùa hè (ở Bắc)
hoặc đầu tháng hai (ở Nam) để cầu gió thuận mưa hoà, đưa hết bệnh-tật đi nơi
khác.” (Việt Nam tự điển – Lê Văn Đức).
Xưa kia, ngoài lễ kỳ yên, hàng năm còn
có tuần đại tế gọi là tế kỳ phúc, tổ chức Xuân Thu nhị kỳ, cầu
cho dân được bình an, hạnh phúc. Dĩ nhiên trong lễ tế kỳ phúc có cả cầu
cho tránh được dịch bệnh.
Nói một cách dễ hiểu, lễ kỳ an, kỳ yên hay cầu mát đầu mùa dịch của dân ta xưa giống
như biện pháp “phòng dịch”, tiêm chủng ngừa cúm mùa hay dịch bệnh hiện nay vậy.
3-
“An”, “Bình”, “Yên”, không phải là “ổn định”
với nghĩa tiêu cực:
Các
“địa danh chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên”, cũng có nghĩa là bình an (Nghệ An, Hoà An…), bình
yên (Hoà Bình, Ninh Bình, Bình Thuận…),
yên ổn (Phú Yên, Yên Thế, Vĩnh Yên…) không chiến tranh loạn lạc, thiên tai
địch hoạ, chứ không phải biểu hiện cho “bản
chất âm tính của văn hoá và người thừa
hành là nguồn gốc của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ” của người Việt,
và “Việc cung cấp một nguồn lực đảm bảo
cho sự ổn định định này là người thừa hành (người công cụ)”, như GS. Trần
Ngọc Thêm suy diễn.
Bình an, hoà bình, yên ổn
luôn là mong ước của mọi cư dân trên thế giới. Ngay cả với dân du canh du cư hay du mục “dương tính” thì họ cũng cần sự “yên ổn”, “ổn định” theo cách của họ,
chứ không riêng gì cư dân “âm tính”
trồng lúa nước.[2]
Như
vậy, GS. Trần Ngọc Thêm đã nhầm lẫn giữa sự trì
trệ, chậm phát triển của “xã hội Việt
Nam truyền thống lấy nghề nông trồng lúa nước làm sinh kế”, với ước vọng về
một cuộc sống bình yên, không thiên tai dịch bệnh, không chiến tranh loạn lạc
nói chung, thể hiện qua lễ kỳ yên, và
cách đặt tên đất tên làng có “chứa yếu tố “An”, “Bình”, “Yên” của người
Việt Nam.
Theo
đây, sẽ không có gì đáng bàn cãi, nếu như nhận xét “người dân Việt Nam quen lấy sự yên ổn làm hạnh phúc”, và “rất phổ biến là các tên đất, tên làng thể
hiện ước vọng về một cuộc sống yên ổn”, không bị GS. Trần Ngọc Thêm gán cho
“bản chất âm tính của văn hoá và người thừa hành là nguồn gốc
của căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ”.
Như
vậy, trong tham luận “Xây dựng văn hoá học
đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo”, ngoài suy diễn rồi gán
nghĩa tiêu cực cho hai chữ “trồng người” (trong câu “vì lợi ích trăm năm trồng
người”), việc giải thích ý nghĩa “kỳ
yên”, “an”, “bình”, “yên” của GS. Trần Ngọc Thêm cũng hoàn toàn mang tính
chất võ đoán.[3]
Hoàng
Tuấn Công/3/11/2021
Chú
thích:
[1]
Sau bài viết trao đổi “Về cách hiểu hai
chữ ‘trồng người’ của GS. Trần Ngọc Thêm”, độc giả V.H.M nhắn tin cho tôi,
bày tỏ e ngại rằng, báo chí đã thuật lại không đúng tinh thần lời phát biểu của
GS. Trần Ngọc Thêm. Và độc giả V.H.M gửi cho tôi toàn văn tham luận “Xây dựng văn hoá học đường trong bối cảnh đổi
mới giáo dục và đào tạo” của GS. Trần Ngọc Thêm, nằm trong tập tài liệu “Hội thảo giáo dục Việt Nam 2021 - Văn hoá học
đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo” (Quốc Hội Việt Nam – Uỷ
ban Văn hoá Giáo dục - Hà Nội, 11/2021). Tuy nhiên, sau khi đọc bản tham luận,
tôi thấy những gì GS. Trần Ngọc Thêm chia sẻ với báo chí chính là cụ thể hoá những
điều Giáo sư đã trình bày tại hội thảo, chứ không có chuyện sai khác.
[2]
- Khái niệm văn hoá “âm tính”, “dương tính” là của GS. Trần Ngọc Thêm.
[3]
- Biết đâu đến một ngày nào đó, người ta lại căn cứ vào nghiên cứu của GS. Trần
Ngọc Thêm để đổi địa danh Hưng Yên thành “Hưng Vượng”, Ninh Bình thành “Ninh
Phát”, Vĩnh Yên thành “Vĩnh Động”, để trị tận gốc “căn bệnh thụ động khép kín, bảo thủ” của người Việt?
Hppilotes Casino: online casino with great offers and free online
Trả lờiXóaWelcome to the 우리 계열 더킹 카지노 Hppilotes 샌즈 카지노 먹튀 Casino. 안전 카지노 사이트 Our home is in the heart of the excitement and excitement of Northern Ireland. 온 카지노 가입쿠폰 Come 카지노 검증 사이트 celebrate our wonderful