"Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu phản đối việc đạo thơ sau nhiều lần “xuê xoa” và bị kiện ngược" Ảnh + chú thích: Báo Tiền Phong |
HOÀNG TUẤN CÔNG
Trong bài “Nạnđạo thơ: Không dung túng cho việc vừa ăn cắp vừa la làng” (Hạnh Đỗ - Báo Tiền Phong - 3/3/2019), Nhà
thơ, PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu cho biết, ông từng nhiều lần “bỏ qua” mỗi khi bị đạo thơ, nhưng rồi “phải
nếm một “quả đắng” cho thói xuê xoa này”, nên lần này “phải lên
tiếng để tránh sự ăn cắp trơ trẽn” đó. Cụ thể, vào năm 1995, ông là người “tìm ra” từ “phồn sinh”, thế mà đến “năm
2018 vừa rồi, tác giả Đinh Sỹ Minh lấy tên “Phồn sinh” đặt cho một tập thơ của
mình”:
“…bài thơ “Phù sa sông Hồng” ông
viết năm 1995, khi đó tìm ra từ “phồn sinh” Linh Khiếu rất thích: “khanh khách
nước cười màu mỡ phồn sinh”. Đây cũng là một từ không có trong từ điển. Linh
Khiếu cho biết: “Khi đó tôi đã gặp Viện trưởng Viện Ngôn ngữ, và cả nhà thơ Hữu
Thỉnh để hỏi thì hai người đều khẳng định “phồn sinh” không có trong từ điển.
Sau tôi tìm gặp cả nhà nghiên cứu Phùng Tấn Đông, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu hỏi
trong văn học phía Nam có ai dùng từ này chưa? Họ trả lời là chưa”.
Sau này, lấy cảm hứng “phồn sinh” Linh Khiếu viết thành trường ca
cùng tên vào năm 2002 và được chia sẻ rộng rãi trên mạng internet. Tập “Phồn
Sinh” mãi chưa xin được giấy phép cho đến năm 2018. Nhưng trong khoảng thời
gian ở dạng bản mềm đó, đã có hai luận án tiến sĩ nghiên cứu về nó, 28 bài báo
nhắc đến và phân tích “Phồn sinh” như một tác phẩm “đáng kể” của trường ca Việt
Nam hiện đại.
Thì vào năm 2018 vừa rồi, tác giả Đinh Sỹ Minh lấy tên “Phồn sinh”
đặt cho một tập thơ của mình. Ngược đời hơn, ông Sỹ Minh còn bắn tin với bạn sẽ
kiện Linh Khiếu vì tội “đạo chữ”.
Đáp lại, trên trang lethieunhon.vn, Nhà thơ Đinh Sỹ Minh trong “THƯ NGỎ gửi ông Nguyễn Linh Khiếu và ôngTổng Biên tập báo Tiền Phong!” cho
biết, ông “không bắn tin và cũng không có
ý định kiện ai như bài báo đã đưa tin”. Mặt khác, tên tập thơ “Phồn sinh”, là do Nhà thơ Vương Tâm đặt
giúp ông, và nó được lẩy ra từ câu "Chưa
thôi mong ngày sỏi đá cũng PHỒN SINH", trong bài thơ “SỎI” của chính
Đinh Sỹ Minh: “Tôi không hề biết ông Nguyễn
Linh Khiếu đã có tác phẩm PHỒN SINH trước hay sau tôi”, Nhà thơ Đinh Sỹ
Minh nói.
Cũng trên trang lethieunhon.vn,
trong bài “Hai câu hỏi gửi PGS.TS Nguyễn Linh Khiếu”, Nhà phê bình
Nguyễn Hoà viết:
“Dù là “khẩu thiệt vô bằng”, tôi
vẫn xin thưa từ những năm 80 của thế kỷ trước tôi đã tiếp xúc với khái niệm
“phồn sinh”, nhưng vì không sử dụng nên tôi không chú ý tìm hiểu nội hàm khái
niệm này. Nay tôi mới được biết PGS.TS Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu là người đã
sáng tạo khái niệm “phồn sinh…”
Xin được nói ngay rằng, tôi không quen biết hai nhà thơ Nguyễn
Linh Khiếu và Đinh Sỹ Minh, cũng không có ý định đứng ra phân xử đúng sai trong
chuyện này. Tuy nhiên, nhân có bạn đọc đề nghị cho biết ý kiến, và xét thấy vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ khá thú vị, nên xin có
đôi lời lạm bàn:
1- Đối với một sinh ngữ, quá trình “rơi rụng”, biến nghĩa, thêm
nghĩa, du nhập, hoặc sản sinh ra từ ngữ mới luôn luôn diễn ra. Thông thường, từ
lúc xuất hiện đến khi được từ điển thu thập, giải nghĩa, thì từ mới phải qua
một quá trình vận dụng nhất định. Nghĩa là từ ngữ được sử dụng tương đối ổn
định trong đời sống, sau đó các nhà biên soạn từ điển mới thu thập, giải nghĩa,
chứ không phải nhà biên soạn từ điển “sản xuất”, đặt ra từ ngữ rồi “cung cấp”
cho đời sống. (Lưu ý: cũng có người chủ
trương cứ thấy từ mới xuất hiện là thu thập vào từ điển, cho dù “ngày mai” nó
không còn được ai nhắc đến nữa). Từ điển cũng không phải cái kho chứa đựng
hết tất thảy từ ngữ nói và viết, cũng như không ai có thể đọc hết thiên kinh
vạn quyển trong thiên hạ (dù “thiên hạ” ở đây được hiểu là một đất nước, vùng
miền có giới hạn nào đó…).
Bởi vậy, không thể căn cứ vào lời của một vị “Viện trưởng viện ngôn ngữ”, hay một nhà thơ, nhà nghiên cứu nào đó
“khẳng định” từ này, từ kia “không có trong từ điển”, không có trong
“văn học phía Nam”, hay phía Bắc,
rồi tin rằng nó hoàn toàn mới, hay chưa
từng ai dùng trong thực tế.
2- Từ “phồn sinh” có thể “mới” với Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu, chứ
không mới với người khác; có thể không có trong từ điển này, nhưng lại có trong
cuốn từ điển khác.
“Hán ngữ
đại từ điển” 漢語大詞典 (La Trúc Phong chủ biên-Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã-1993) là
bộ sách gồm 12 quyển, bắt đầu biên soạn từ 1975, sau 18 năm (1975~ 1993) thì hoàn thành và xuất bản trọn bộ. Sách này đã thu thập và giải thích từ “phồn sinh” như sau:
“PHỒN SINH: phồn thực; sinh trưởng, sinh sản; phát triển
nhiều thêm.” [nguyên văn: 繁生 fán shēng. 繁殖滋生; 發展增多 - phồn sinh: phồn thực tư sinh;
phát triển tăng đa].
“Hán ngữ đại từ điển” cũng dẫn liệu:
- Tống Ứng Tinh (1585~1666), một nhà khoa học đời
Minh mạt, trong sách “Thiên Công Khai Vật”,
mục “Hồ
thỉ” viết về cây hoa (cây cáng
lò, bulo) một loại cây có thể lấy vỏ đốt nhựa làm đuốc, làm keo chế cung
tên, “sản ở Liêu Dương, phía Bắc thì “phồn sinh” (mọc nhiều, sản
sinh nhiều) ở Tuân Hoá, phía Tây thì “phồn sinh” ở quận Lâm Thao, các vùng như
Mân, Quảng, Triết đều có cả.” [明 宋應星 “天工開物‧弧矢”: “凡樺木關外產 遼陽, 北土繁生 遵化, 西陲繁生 臨洮郡, 閩, 廣, 浙 亦皆有之 – Minh Tống Ứng Tinh “Thiên công khai vật‧Hồ thỉ ”: “phàm hoa mộc quan ngoại sản Liêu Dương, Bắc thổ phồn
sinh Tuân Hoá, Tây thuỳ phồn sinh Lâm Thao quận, Mân, Quảng, Triết diệc
giai hữu chi].
- Tản văn
gia, Tiểu thuyết gia Dương Sóc (1913~1968), trong “Hải thị”, viết: “Mùa hoa
đào cũng là mùa vạn vật “phồn sinh” (sinh sôi, nảy nở).” [楊朔 “海市”: “桃花時節, 也是萬物繁生的時節 - Dương Sóc “Hải thị”: “đào hoa thời tiết, dã thị vạn
vật phồn
sinh đích thời tiết].
- Nhà văn Lỗ Tấn (1881~1936), trong “Tam nhàn tập - Cận đại thế
giới đoản thiên tiểu thuyết tập-tiểu dẫn”, viết: “Trong hoàn cảnh hiện nay, người ta bận bịu nhiều công việc, không có thời
gian đọc trường thiên. Tự nhiên điều này trở thành một trong những nguyên nhân
quan trọng khiến cho đoản thiên tiểu thuyết “phồn sinh” (phát triển, thịnh
hành).” [魯迅 “三閑集‧ “近代世界短篇小說集”小引”:“在現在的環境中,人們忙於生活,無暇來看長篇,自然也是短篇小說的繁生的很大原因之一 Lỗ Tấn “Tam
nhàn tập‧ “Cận đại thể giới đoản thiên
tiểu thuyết” tiểu dẫn”: “Tại hiện tại đích hoàn cảnh trung, nhân môn mảng ư
sinh hoạt, vô giá lai khán trường thiên, tự nhiên dã thị đoản thiên tiểu thuyết
đích phồn
sinh đích ngận đại nguyên nhân chi nhất].
- “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm từ điển học
Vietlex kế thừa và phát triển), là bộ từ điển được biên soạn, chính lý bổ sung
một cách bài bản, hệ thống. Tuy chưa thu thập và giải nghĩa từ “phồn sinh”, nhưng
trong kho ngữ liệu mà Trung tâm từ điển học
Vietlex cung cấp cho chúng tôi có ghi nhận từ “phồn sinh”: “Tôi và cô đã bí mật gặp nhau. Một buổi trưa, ngày chuyển mùa, nắng
đầu hạ nhạt và nhẹ tênh. Sự giao linh của mùa đã nhú mầm PHỒN SINH trên cây cỏ”. [Văn nghệ quân đội. Tác giả: Lê Ngọc Minh. Ngày phát hành:
01-06-1997.].
Có thể lấy ngay từ “giao linh” trong câu văn của Lê Ngọc
Minh làm ví dụ: “Sự GIAO LINH của mùa đã
nhú mầm PHỒN SINH trên cây cỏ.”.
Trong hàng chục cuốn từ
điển xuất bản tại Việt Nam “từ cổ chí kim”, chúng tôi chưa tìm thấy cuốn nào
thu thập từ này. Thậm chí, khi tìm kiếm trên Google, “Giao Linh” chỉ hiển thị
với nghĩa là tên một ca sĩ ở miền Nam trước 1975. Tuy nhiên, “giao linh” được “Hán ngữ đại từ điển” thu thập và giải
nghĩa là: “1.Chỉ linh khí trời đất giao
hoà [謂天地兩種靈氣交合-vị thiên
địa lưỡng chủng linh khí giao hợp]; 2. Nói hồn phách tương
giao. [謂魂魄交往-vị hồn phách giao vãng].
Cũng theo ngữ liệu của Trung
tâm từ điển học Vietlex, sau Lê Ngọc Minh đúng một tháng, “Giao linh” xuất hiện trong một bài thơ
của tác giả khác: “Tất cả giao linh trong nhịp đập của đất” [Tiền Phong cuối tháng. Tác giả: Vi Thuỳ
Linh. Ngày phát hành: 01-07-1997.].
Cả Lê Ngọc Minh và Vi Thuỳ Linh đều dùng “giao linh” đúng với nghĩa như “Hán
ngữ đại từ điển” đã giảng. Vậy, nếu theo cách “độc quyền từ ngữ” của Nhà
thơ Nguyễn Linh Khiếu, thì tác giả Lê Ngọc Minh cũng có quyền đi kiện Vi Thuỳ
Linh, vì đã dùng từ “giao linh” chăng?
Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu cho rằng, Nhà thơ Đinh Sĩ Minh đã "đạo chữ" "phồn sinh" do ông "tìm ra" từ 1995 Ảnh: Lí Học |
3-Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu viết: “trong khoảng thời gian ở
dạng bản mềm đó, đã có hai luận án tiến sĩ nghiên cứu về nó, 28 bài báo nhắc
đến và phân tích “Phồn sinh” như một tác phẩm “đáng kể” của trường ca Việt Nam
hiện đại.”
Nhà phê bình Nguyễn Hoà đặt
nghi vấn: một tác phẩm chưa xuất bản, thì liệu có đủ tiêu chuẩn để lựa chọn làm
luận án tiến sĩ hay không? Còn chúng tôi lại muốn nói đến một vấn đề khác. Với một tác phẩm văn học, sự đóng góp của nhà văn không chỉ về tư
tưởng, cốt truyện, hay hình tượng nghệ thuật…mà còn về mặt ngôn ngữ. Giả sử ai
đó là người sáng tạo ra từ “phồn sinh”, thì sự đóng góp “đáng kể” của tác phẩm về mặt ngôn ngữ sẽ phụ thuộc vào việc từ “phồn sinh” có thực sự “phồn sinh” trong đời sống hay không.
Như
vậy, xét về “lí”, thì người đầu tiên Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu cần “kiện” về
tội “đạo chữ”, phải là tác giả Lê Ngọc Minh, chứ không phải Đinh Sỹ Minh. Hoặc
sau Lê Ngọc Minh (1997) là “ khởi kiện” vô số người khác đã dùng từ “phồn sinh”, theo kết quả tìm kiếm trên Google, như:
-“…về biểu tượng phồn sinh trong văn hóa Chăm.” (doanhnhansaigon.vn-15/7/2012).
-“Có hay không một thánh
địa của nghi lễ phồn sinh tại Cát Tiên.” (Báo
Lâm Đồng-2013).
-“Ước vọng phồn sinh, phồn thực” (Tạp chí Sông Hương-2015).
-“Bài chòi phồn sinh sức xuân.” (Báo Quảng
Nam-2015)…
Tuy nhiên, nếu người ta
có thể kiện tụng, “đòi chữ” kiểu này được, thì con cháu của Tống Ứng Tinh bên
Tàu lại sẽ là người khởi kiện Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu về tội đã dùng từ “phồn sinh” theo đúng cái nghĩa mà từ nửa
thiên niên kỷ trước, cha ông họ đã dùng mới phải. Nhưng dẫu
muốn, thì con cháu Tống Ứng
Tinh cũng không thể căn cứ vào sự ghi nhận của “Hán ngữ đại từ điển” mà kiện Nguyễn Linh Khiếu được. Bởi hai chữ
“phồn sinh” trong “Thiên công khai vật”
có “niên đại” sớm nhất trong số 3 dẫn chứng mà “Hán ngữ đại từ điển” đưa ra, chứ không có nghĩa Tống Ứng Tinh là
người đầu tiên, hoặc người sáng tạo ra từ này. Theo đó, có thể trước ông đã có
người, hoặc nhiều người dùng “phồn sinh” rồi. Cũng như theo ngữ liệu của Trung tâm từ điển học Vietlex, thì “phồn sinh” xuất hiện trong tác phẩm của
Lê Ngọc Minh (1997), nhưng thực tế Nguyễn Linh Khiếu đã dùng trong “Phù sa sông Hồng” từ hai năm trước (1995).
Và dĩ nhiên, trước 1995, không bằng cách này thì cách khác, phải có người du
nhập, dùng từ “phồn sinh”, rồi Nguyễn
Linh Khiếu mới biết đến mà vận dụng.
[Cập nhật: Sau khi chi sẻ bài viết trên FB (23g 20p/ngày 17/3/2019) Bạn đọc Bùi Quang Anh Tú đã cung cấp cho chúng tôi ngữ liệu quý trong đoản thiên tiểu thuyết của Phạm Vọng Chi trên báo "Thanh Nghệ Tĩnh Tân Văn" xuất bản năm 1931 (hiện lưu tại Thư viện Quốc gia), trong đó có từ "PHỒN SINH":
"Đến năm sau gặp lúc mùa xuân, tiết trời êm ái, gió lặng, trăng thanh, vạn vật PHỒN SINH, bách hoa đua nở, hai cụ thong dong, đồ đệ gánh gồng, vui chân theo bọn thiện-nam tín-nữ,khăn xanh áo đỏ đi lễ chùa Hương-tích..." (xem ảnh minh hoạ)
[Cập nhật: Sau khi chi sẻ bài viết trên FB (23g 20p/ngày 17/3/2019) Bạn đọc Bùi Quang Anh Tú đã cung cấp cho chúng tôi ngữ liệu quý trong đoản thiên tiểu thuyết của Phạm Vọng Chi trên báo "Thanh Nghệ Tĩnh Tân Văn" xuất bản năm 1931 (hiện lưu tại Thư viện Quốc gia), trong đó có từ "PHỒN SINH":
"Đến năm sau gặp lúc mùa xuân, tiết trời êm ái, gió lặng, trăng thanh, vạn vật PHỒN SINH, bách hoa đua nở, hai cụ thong dong, đồ đệ gánh gồng, vui chân theo bọn thiện-nam tín-nữ,khăn xanh áo đỏ đi lễ chùa Hương-tích..." (xem ảnh minh hoạ)
Tư liệu do FB Bùi Quang Anh Tú cung cấp |
4- Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu nói: “Tôi là người cẩn thận, tất cả các sáng tác của
tôi đều đã đăng ký bản quyền, nhưng để tránh những vụ việc tương tự, có lẽ
chúng ta phải nghiêm khắc nhìn nhận lại vấn đề này, không thể chuyện lớn hóa nhỏ
mãi được, bởi bây giờ người ta đạo văn không chỉ tinh vi mà còn trơ trẽn.”!
Nhưng liệu có cơ quan nào dám chứng nhận “bản quyền” từ “phồn sinh” cho Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu, khi ông không phải là người
sáng tạo ra từ này?
Trong Hán tự, chữ “phồn” 繁, có nhiều nghĩa, như: nhiều; thịnh vượng; tươi tốt; sinh sôi; hưng
thịnh; tạp loạn; biến cải…Chữ “phồn” được dùng để cấu tạo nên hàng chục,
hàng trăm từ ngữ khác:
-“Từ điển Hán Việt” (Phan Văn Các chủ biên-NXB Từ điển Bách khoa-2014)
thu thập hơn 30 từ ngữ có chữ “phồn”, như: “phồn
bản” 繁本 (bản đủ, bản dài); “phồn
bác” 繁博 ([dẫn chứng] phong phú, nhiều nguồn); “phồn phức” 繁複 (phiền toái, phiền phức); “phồn
hoa” 繁花 (nhiều hoa); “phồn hoa”
繁華 (phồn hoa, sầm uất); “phồn
lệ” 繁麗; ([từ ngữ] dồi dào hoa lệ); “phồn
loạn” 繁亂 ([công việc] rắc rối); “phồn
mang” 繁忙 (công việc bận rộn); “phồn
mậu” 繁茂 (cây cối rậm rạp, tốt tươi); “phồn
mật” 繁密 (dày đặc, đông đúc); “phồn
nan” 繁難 (phức tạp, khó khăn); “phồn
náo” 繁鬧 (phồn vinh, náo nhiệt); “phồn
vinh” 繁榮 (phồn thịnh, phát triển); “phồn
dục” 繁育 (nhân giống phát triển)…
-“Hán ngữ đại từ điển” thu thập và giải nghĩa hơn 150 từ ngữ bắt đầu
bằng chữ “phồn”, như: “phồn mộc” 繁木 (cây cối tốt tươi rậm rạp); “phồn văn” 繁文 (văn từ dài dòng, phức tạp…);
“phồn đa” 繁多 (nhiều đông); “phồn ngôn” 繁言 (nhiều lời); “phồn lâm” 繁林 (cây rừng rậm rạp): “phồn chi” 繁枝 (cành lá tốt tươi); “phồn xương” 繁昌 (phồn vinh, đẹp tốt); “phồn dục” 繁育 (sinh đẻ và nuôi nấng); “phồn pháp” 繁法 (quy định phiền hà); “phồn chỉ” 繁祉 (nhiều phúc); “phồn vân” 繁 雲 (nhiều mây); “phồn thử” 繁暑 (nhiều nắng), v.v…
Như vậy, việc xác định người đầu
tiên đặt ra “phồn sinh” là không thể. Bởi cấu tạo
và nghĩa của từ “phồn sinh” không có gì đặc biệt so với hàng trăm từ ngữ có chữ
“phồn” khác. Nói cách khác, nó đặc biệt, hay dở ra sao là phụ thuộc vào
tài vận dụng của từng người. Một mình từ "phồn sinh" không làm nên giá trị của tác phẩm. Hơn nữa, giả sử Tống Ứng Tinh hoặc một
tác gia cổ đại nào đó “đăng ký độc quyền từ ngữ”, thì chắc hẳn, từ “phồn sinh” chẳng những không “phồn sinh” được, mà còn nằm chết dí
trong tác phẩm của họ từ mấy trăm năm trước. Người đời
sau đâu còn được quyền “tìm ra”, rồi
tạo nên tác phẩm “đáng kể” như Nhà thơ Nguyễn Linh Khiếu tự hào?
HTC/3/2019
Nhiều người cứ cậy có học hàm học vị cứ tưởng là mình ''đỉnh cao trí tuệ'', mà không biết mình dốt!
Trả lờiXóaBài này phân tích khách quan. Like!
Trả lờiXóa