HOÀNG TUẤN PHỔ
Kết quả nghiên cứu địa chất học và địa
lý học cho thấy cách nay ba bốn ngàn năm, Sầm Sơn còn là một vịnh nông. Núi
Trường Lệ như đảo nhỏ Trường Sơn, sóng biển từng lớp từng lớp vỗ ào ào vào tận
thôn Bình Hòa, xã Quảng Châu. Truyền thuyết vua An Dương vương bị quân Thục
đánh đuổi chạy đến đây bị tắc lối nghẽn đường buộc phải dừng ngựa khấn thần Kim
Quy giúp đỡ... có cơ sở thực tế về địa lý lịch sử.
Khoảng cách giữa
Bình Hòa và Sầm Sơn là đồng Sông mênh mông bể sở, bốn mùa sóng vỗ ì oạp. Đồng
này xưa nối liền với sông Mã, nước sâu tới rốn, chỉ cấy được lơ thơ mấy đám lúa
thông, lúa cờn, chúng cố ngoi ngóp vươn lên chống chọi lại sóng gió để trổ bông
cho người giống gạo quí. Nhân dân vùng này than thở:
Bao giờ đền Thượng hết hương
Đồng Sông hết nước, dân thường mới no!
Đất Sầm Sơn hình
thành do những dòng hải lưu kiên trì không mệt mỏi
đem phù sa và bùn đất từ những cửa sông phía Bắc,: Sông Mã, Lạch Trường... rồi được con đê thiên tạo vĩ đại Trường Lệ làm bức tường thành chắn giữ lại.
Biển khơi chịu thua, mỗi ngày càng lùi xa, bỏ lại một vụng hồ thành đồng Sông.
Khi Sầm Sơn hình thành một cồn cát kéo dài từ chân núi Trường Lệ đến Lạch Trào
cửa Hới (sông Mã) sự sống nhanh chóng xuất hiện, đầu tiên là cỏ bụi, cây lùm
rồi rất lâu mới thấy con người, những cư dân thất cơ lỡ vận lang thang dọc bờ
biển đi tìm đất sống. Bà con Bình Hòa và nhiều người khác phía Tây núi Trường
là nông dân sống chết với đồng ruộng, đất cồn bái mênh mông còn bỏ hoang, để ý
gì đến bãi cát mới nổi nênh trước đầu sóng ngọn gió.
Kéo rùng ở Sầm Sơn Ảnh tư liệu ST |
Những người đầu
tiên đến cồn cát đi lút bàn chân nóng bỏng trưa hè phải nương tựa vào một góc
chân núi Trường Lệ để chống lại sóng biển, gió cát, bão tố. Đó là những hạt
nhân đầu tiên của Sầm Sơn, chụm lại thành xóm Núi. Trước năm 1945, Sầm Sơn
thành lập nhiều thôn, xã, tính từ cửa Hới, cửa sông Mã vào:
1- Hải Thôn, tên
nôm làng Hới.
2- Xã Triều - Thanh
Lộc có 3 thôn: Triều Dương, tên nôm làng Trào. Thôn này ở mép sông Mã tức Lạch
Trào. Thanh Khê, tên nôm làng Vạn, vốn trước là một vạn chài (xóm chuyên nghề
chài lưới). Lộc Trung, tên nôm làng Giữa, chỉ có một thôn Bình Tân, tên nôm
làng Bến, thuộc loại “nhất xã nhất thôn”.
3- Xã Lương Niệm là
xã lớn nhất. Sau năm 1945, căn cứ số dân, địa thế phải chia làm 4 xã: xã Quảng
Sơn chỉ có một thôn, tên xưa: Sầm Thôn. Xã Quảng Tường gồm Lương Hải Thôn,
Triều Dương. Xã Quảng Tiến có các thôn Cá Lập, Hải Thôn, Bình Tân tức Hải Lộc.
Xã Quảng Cư trước là hai làng Thanh Khê, Lộc Trung. Xã này ở cửa Hới, địa dư
nhô ra đến hơn 10 m. Đây là hiện tượng tự nhiên theo quy luật “đất tiến biển
lùi” do các dòng hải lưu vẫn tiếp tục hoạt động từ thiên vạn cổ.
Bãi tắm xưa ở Sầm Sơn Ảnh tư liệu ST |
Địa danh Sầm Sơn
trước năm 1945 không phải là tên chung bao gồm các làng xã nói trên, thời phong
kiến thuộc tổng Cung thượng, huyện Quảng Xương. Tên Sầm Sơn mới xuất hiện từ
sau khi thực dân Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam, phát hiện ra một nơi nghỉ
mát thú vị, ưa thích đặc biệt ở Thanh Hóa. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh
giải nghĩa: “Tên một trái núi ở Thanh Hóa. Tên cũ cửa biển ở gần núi Sầm Sơn,
khí hậu rất tốt, người Tây lấy để làm nơi nghỉ mát”. Điều này không thật chính
xác: Sầm Sơn là tên gọi do người Pháp về một hòn núi của dãy núi Trường Lệ,
thực danh núi Trường Sơn, tên nôm núi Kẻ Trường. Bởi làng Cổ Trường Lệ áp sát
mỏm phía Tây Trường Sơn nên được xem là núi Trường Lệ. Cửa biển gần núi nhất là
Lệ Hải, tức Lệ Hải Bà vương, một tước phong của Bà Triệu có đền thờ trên núi
Trường Lệ, từ lâu đã mất. Cửa Lệ Hải, Pháp hàn đá xây cống thành tên cống sông
Đơ, làm nơi trú ngụ cho thuyền bè khi bão tố. Một bài ca vè thời ấy ca ngợi:
Sầm Sơn phong cảnh hữu tình
Hòn Hèo cao nhất, hòn Gành thứ hai,
Thứ ba ngọn núi Phù Thai
Thứ tư Cổ Giải nằm ngoài Đầu Voi...
Hòn núi gần làng
Trường Lệ, tên chữ Tượng Đầu Sơn phong cảnh rất đẹp, xưa thờ thần Độc Cước, nay
đổi đền Cô Tiên, hướng nhìn xuống hòn câu bé nhỏ, theo truyền thuyết đêm đêm
các nàng tiên trên trời xuống tắm, có chàng trai ngư dân ngồi câu cá chờ đợi
được nhìn ngắm dáng hình tiên nữ sau khi cởi bỏ hết xiêm y.
Núi Trường Lệ -
Trường Sơn nhô ra biển phía đông, nằm ngoài nhất là hòn Cổ Giải thuộc sơn phận
làng Núi, còn gọi là Mũi Gầm hay đỉnh Sầm. Bài “Mục lục” xưa của làng Lương
Trung (làng Giữa) mô tả địa thế đẹp của làng mình có câu: “Đỉnh Sầm trước án,
cao phong nhiệm mầu”. Theo địa lý phong thủy, đỉnh Sầm làm tiền án cho làng
Lương Trung (xã Quảng Tường) trù phú.
Nhà nghỉ mát trên núi Trưởng Lệ thời Pháp Ảnh tư liệu ST |
Người Pháp xây dựng
trên núi Trường Lệ chỗ hòn Cổ Giải một khu dành riêng cho họ nhiều lâu đài,
biệt thự mang tên “Sầm Sơn Haut” dịch Sầm Sơn Thượng, dưới chân
đỉnh Sầm, bãi biển Sầm Sơn là khu vực bãi tắm, sở cẩm, nhà gian, bang tá và khu
phố nhỏ gồm cửa hàng, chợ búa để phục vụ người Pháp là chính. Ngoài ra còn nhà
thờ Thiên Chúa và địa phận Sầm Sơn chỉ đến đây, gọi là “Sầm Sơn Bas” dịch Sầm Sơn Hạ. Du khách đến đây người Việt thường chỉ có giới quan lại,
người giàu có, quyền thế.... Và ngoại kiều được quan Bang tá cho phép. Đây là
một thế giới thần tiên đối lập với cõi trần gian, bắt đầu từ khu vực nhà thờ,
từ làng Lương Trung ra tận làng Hới cửa sông Mã. Người ở đây là “cư dân cát” ăn
trên cát, nằm trên cát, vui buồn với cát, chết đi lại vùi sâu dưới cát, lấy cát
làm... quan tài!
Năm 1885 đánh chiếm
Thanh Hóa, thực dân Pháp xây pháo đài Sầm Sơn để càn quét làng xóm đôi bờ sông
Mã và năm 1886 dập tắt ngọn lửa Cần Vương, bắt đầu để ý Sầm Sơn một vùng biển
giàu đẹp. Để xây dựng khu nghỉ mát Sầm Sơn, năm 1906, chính quyền cai trị bắt
dân chúng đầu đội đất, vai vác đá đắp con đường số 8 từ thị xã Thanh Hóa xuống
tận bãi biển để xe cộ gần xa đi lại được thuận tiện. Con đường chỉ dài 16km
nhưng nỗi vất vả, cực nhọc của phu đài kéo dài đến vô tận! Kỹ sư Pháp thiết kế,
công nhân từ Pháp sang thi công, những tòa lâu đài kiểu Âu Châu mọc lên dành
cho công sứ, toàn quyền “ba tòa quan lớn tỉnh (Tổng đốc, Bố chính, Án Sát)...
sau thêm biệt thự vua Bảo Đại (kiến trúc ở đây gọi là Sầm Sơn Hô - Sầm Sơn
Thượng).
Trước khi kết luận Sầm Sơn là bãi tắm, nơi nghỉ mát tốt nhất Đông
Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) người Pháp khảo sát rất kỹ: Chế độ gió mùa,
nhiệt độ trong nước biển trung bình 210-250, lượng muối thấp, vì trong một
chiều dài ba bốn chục km, có tới 5 con sông đem nước ngọt từ thượng nguồn về,
nước độ mặn càng thấp, lượng oxy hòa tan càng cao. Bãi cát thì rộng dài, dốc
thoai thoải, nền cát dẽ, sóng biển đổ vào nhè nhẹ, nhịp nhàng như hơi thở của
bà mẹ biển cả hiền lành tốt bụng...
Một tác giả người Pháp tả cảnh Sầm Sơn: “Bãi biển Sầm Sơn cách thị
xã (Thanh Hóa) 16km có đường rất đẹp, đi ô tô độ nửa giờ, là bãi biển đông
người tới nghỉ mát nhất trên bờ biển Đông Dương. Các biệt thự, khách sạn mọc
trên mỏm núi đá hoa cương, hay dưới bãi cát giữa các rặng phi lao chỉ cách mép
biển vài ba mét. Các viên chức, quan chức người Pháp trong tỉnh và cả ở Bắc kỳ
nữa, hằng năm đến đây tắm biển và hưởng gió biển để tránh nóng nực mùa hè”.
Cũng cần nói thêm ở khu Sầm Sơn Bas (Sầm Sơn Hạ) ngày càng nhiều nhà cửa, hàng
hiệu được xây dựng, nhanh chóng trở thành phố thị sầm uất để phục vụ ăn chơi
của giới giàu có như tiệm thuốc phiện, xóm lầu xanh, hiệu cầm đồ, nhà xóc đĩa,
hàng ăn uống... Khách làng chơi hạng kiết xác cũng đến đây để biến thành kẻ hạ
lưu sẵn sàng bán hết ruộng nương nhà cửa, bán cả vợ đợ cả con, rơi xuống tầng
đáy xã hội: cấp bậc lưu manh!
Hòn Trống Mái Ảnh tư liệu ST |
Chợ ở Sầm Sơn thời Pháp Ảnh tư liệu ST |
Số dân làng xã từ
làng giữa đến làng Hới phát triển nhanh, no đẻ đã đành nhiều, đói đẻ cũng lắm!
Đất đai chật hẹp, họ phải tràn ra phía bãi biển, che những túp lều lá, cột bằng
cây phi lao dưới bóng rừng phi lao thưa thớt dần, ngày đêm vẫn yêu đời cất
tiếng hát vi vu hợp thành bản nhạc “Sóng-gió-cát” bao la bất tận...
Hoàng Tuấn Phổ 4/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét