HOÀNG TUẤN PHỔ
Thành Nhà Hồ là một tòa thành đá kỳ vĩ của kinh thành nước Đại
Việt cuối Trần sang Hồ. Kiến trúc sư tòa thành đá độc đáo này là Thượng thư bộ
Lại Đỗ Tĩnh thiết kế và thi công. Hồ Quý Ly dời kinh đô nhà Trần ở Thăng Long
vào kinh đô mới Tây Đô trên đất quê hương Thanh Hóa, đổi gọi Thăng Long là Đông
đô. Năm 1428, Lê Lợi quét sạch giặc Minh, lên ngôi ở Đông đô - Thăng Long, gọi
Lam Sơn - Thanh Hóa là Tây đô.
Năm 1430, vua đổi Đông đô làm
Đông kinh, và tên Tây đô chuyển thành Tây kinh, cũng để chỉ Lam Kinh. Từ đó
thành Tây đô của vương triều Trần - Hồ mang nhiều tên: Thành An Tôn, thành Tây
Giai, thành Hồ, Hồ Thành, thành Đá, thành Tây đô... và Thành Nhà Hồ như tên gọi
chính thức hôm nay.
Phải đến tận nơi, nhìn tận mắt,
quan sát thật kỹ, chúng ta mới thấy tầm vóc vĩ đại của tòa thành đá với sức
mạnh thần kỳ từ đôi bàn tay xù xì cùng tấm lưng trần gồ ghề mà người nông dân
Việt áo nâu và áo lính sở hữu. Lơ Badixie, một học giả người Pháp đứng trước
tòa thành kỳ vĩ, vô cùng kinh ngạc thốt lên: “Người An Nam là những người khổng lồ đào đất!” Hoàn toàn đúng !
Nhưng chưa đủ. Dân Việt Nam còn là những người khổng lồ: “quảy núi cày sông”. Ở
huyện Nông Cống có Núi Quảy sông Cày là di tích của ông Nưa khổng lồ. Truyền
thuyết ông Đồng khổng lồ ở Tĩnh Gia gánh cả mười tám hòn núi ném xuống biển
thành quần đảo Biện Sơn, tạo nên đồng ruộng, chỗ cấy lúa nơi trồng màu. Hình
tượng ông Vồm khổng lồ Thiệu Hóa hiện còn ghi dấu tích tại núi Vồm... Nếu không
có sức vóc khổng lồ, ông cha ta thời Trần không thể xây dựng trong thời gian ba
tháng hoàn thành một công trình lớn nhất Việt Nam bốn nghìn năm dựng nước và
giữ nước, hiện còn thấy.
Thành Nhà Hồ gồm ba lớp liên kết
chặt chẽ: Lớp ngoài bằng những khối đá vuông vức to lớn, nặng hàng chục tấn,
lớp giữa bằng đất nện, lớp trong cùng xây gạch vồ, có nhiều bậc thang lên
xuống dễ dàng. Trên mặt thành rộng rãi, bằng phẳng, quân lính, ngựa, xe đi lại
thuận tiện như đường cái.
Thượng thư Đỗ Tĩnh là kiến trúc
sư tài giỏi, lại có con mắt địa lý phong thủy. Bốn trái núi là bốn bức bình
phong án ngữ phía trước bốn cửa thành mang hình tượng bốn con vật linh: Ngưu
(trâu), Khuyển (chó), Mã (ngựa). Phía xa xa, núi Đốn Sơn làm tiền án mang
hình tượng lĩnh thiên thần và dòng sông Mã nối sông Bảo như cánh tay vòng ôm
lấy kinh đô để bảo vệ tòa thành. Đó là tình cờ của thiên nhiên hay tạo hóa chủ
ý dành cho họ Hồ xây kinh đô mới để dựng nên nghiệp lớn. Khi bàn việc xây thành
dời đô, đại thần Nguyễn Nhữ Thuyết can: “An Tôn (nơi xây thành) là đất chật hẹp
hẻo lánh, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy hiểm được thôi!”. Dĩ nhiên
Quý Ly không nghe, vì ông cần sự hiểm yếu để phòng bạo loạn. Mặc dù có tòa
thành đá vững hơn bàn thạch, trước họa xâm lăng của giặc phương Bắc, Hồ Quý Ly
không thủ thành chiến đấu mà từ vua Hán Thương, tướng quốc Nguyễn Trừng đến các
tướng trước ồ ạt như mưa lũ, bão giông của giặc Minh, các mặt trận chống đỡ đều
tan vỡ.
Chỉ còn thượng
hoàng Hồ Quý Ly ở lại với tòa thành đá trơ vơ, lạnh lẽo. Giặc Minh ngược dòng
sông Mã tiến lên đến khúc Vĩnh Ninh. Hồ Quý Ly mang theo vài vệ sĩ đi theo chiếc
thuyền chài trên sông Bảo. Đến một đoạn sông khó đi, Quý Ly hỏi: “Đây là nơi
nào ?”. Thuyền chài đáp: “Đây là ghềnh Chẩy Chẩy!”, Quý Ly nói với vệ sĩ: “Chẩy
chẩy tức chỉ chỉ, chữ “chỉ” là đi đến, là dừng lại, “chỉ chỉ” là đến đây thì
hết đường !. Đó là mệnh trời muốn diệt họ Hồ !”. Nói xong Quý Ly quăng gươm
xuống sông, bảo vệ sĩ làm theo mình. Quả nhiên giặc Minh đuổi kịp, chỉ có bảy
tên, đủ sức trói cổ một ông vua oai trùm thiên hạ! Áp giải về Kim Lăng kinh đô
nhà Minh cùng với anh em, con cháu họ Hồ.
Nhà Minh lấy đất
đai Đại Việt nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, cũng chia quận, huyện, đặt quan lại
như Trung Quốc, chỉ khác là chế độ cai trị vô cùng tàn khốc. Chủ trương của
quân xâm lược là phải diệt nền văn hóa Việt tận gốc, riêng tòa thành đá vẫn giữ
lại để bảo vệ quan lại, quân lính của chúng đóng trên đất Thanh. Hàng ngày giặc
chia nhau đi càn quét cướp bóc, đêm đêm chui vào thành đá như cáo, chuột về
hang. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, Bình Định Vương Lê Lợi sai quân đánh thành Tây
Đô để trừ mối họa cho dân Thanh, nhưng không kết quả, vì tòa thành đá quá kiên
cố.
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giải phóng Đông
đô, thành Tây Đô giặc Minh tự trói tay xin hàng. Hầu hết các công trình kiến
trúc trong thành: Cung điện, lầu ta... đều bị chúng tàn phá trước khi cuốn gói
về nước.
Một trong những vinh dự nhất cho kinh thành
Nhà Hồ thủ đô nước Đại Việt là nơi sĩ tử cả nước tập trung về dự khoa thi Thái
học sinh (tiến sĩ) năm 1400 và khoa thi này đã tuyển chọn được 20 tiến sĩ, với
những danh sĩ Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên ...
Cuộc kháng chiến
họ Hồ thất bại, đất nước, kinh thành bị quân Minh giày xéo, Tây đô trở thành đề
tài bình luận của nhiều người. Có lẽ sớm nhất là bài thơ “Đề thành Tây Đô” của Nguyễn Mộng Trang, người huyện Đông Sơn,
Thanh Hóa. Nguyên tác chữ Hán, dịch thơ:
Vút ngựa qua
thăm mấy lớp thành,
Phất phơ liễu rũ
bóng hồ xanh
Mất, còn khó
tính mưu trừ bạo
Thắng, bại khôn
toan chức trị bình
Chỉ bởi họ Hồ
quên đức chính
Đừng rằng Nam
Việt thiếu anh linh
Ước gì mượn hạc
lên tiên giới
Sáu cõi kêu vang
chuyện bại thành.
(Hoàng Tuấn Phổ dịch)
Nói chung các
danh sĩ xưa đến viếng thăm Tây đô Thành Nhà Hồ, bên cạnh quan điểm phong kiến
phê phán sai lầm, trách nhiệm của Hồ Quý Ly là niềm cảm khái, u hoài về chốn
kinh thành, một thời vàng son, đô hội:
Đỗ Xuân Cát:
“An Tôn thành hoài cổ”
Thanh sơn cựu
sấu tồn di thiết
Hoàng đạo tâm,
hi thất cố cung...
(Tích cũ thành
hoang in núi biếc,
Điện xưa lúa tốt
lấp đồng sâu)
Hoàng Tuấn Phổ dịch
Nhữ Trì Mai (Nguyên tác
chữ Hán, Hoàng Tuấn Phổ dịch thơ)
“Vịnh thành Tây Nhai”
Điện ngọc xưa ngất trời
Nay còn gạch nát thôi
Chim luồn bụi tre rậm,
Rêu phủ hòn đá côi
Nhạn đến lòng kêu thảm
Xuân sang miệng nở cười
Mưu đồ tan bọt nước
Nghĩ chuyện sầu man mác !
Hơn 600 năm
trôi qua, ngày nay chúng ta đến Tây đô thành Nhà Hồ với cái nhìn, cách nghĩ mới
của thời đại mới. Đó là niềm tự hào về tổ tiên mình đã vác núi xây nên tòa
thành đá kỳ vĩ, độc đáo. Nó không có vữa hồ làm mạch, mà gắn kết những khối đá
phiến khổng lồ bằng mồ hôi trộn nước mắt và máu của muôn dân. Sự hy sinh của
đôi vợ chồng Trần Cống Sinh - Khương Thị là biểu tượng công lao xương máu của
nhân dân, đền Đông môn thờ Nàng Khương cũng là một loại tượng đài tâm linh tôn
vinh nhân dân:
Nhất phiến kiên
trinh năng động thạch,
Thiên thu tằng
lũy đáo như kim.
Một tấm kiên
trinh lay lũy đá
Ngàn thu hương
khói tỏa trời mây...
(Nguyên tác Lê Thực
Đình, dịch thơ:
Hoàng Tuấn Phổ)
Thời gian có thể
phủi bụi mờ hoặc xóa đi mọi thứ, chữ “Tây đô” một thời là kinh đô nước Đại
Việt, vẫn còn tươi nét son trong sử sách. Và “Thành Nhà Hồ” hôm nay sáng rực
ánh vinh quang “Di sản Văn hóa Thế giới” đi vào lòng nhân loại. Từ đây, anh em,
bè bạn, du khách bốn phương có thêm điểm đến hấp dẫn để thưởng thức, khám phá
kho báu, bức tranh thiên nhiên và văn hóa của một nền văn minh lâu đời. Thành
Nhà Hồ sẽ đưa mọi người ngược dòng thời gian 30 vạn năm trước của lịch sử đất
xứ Thanh di chỉ khảo cổ Đa Bút, một cái nôi của loài người nguyên thủy, đu đưa
dưới bóng núi Mông Cù, trong tiếng ru ngọt ngào của gió lá, tiếng khe suối thì
thầm, tiếng chim chóc ríu ran... Quây quần chung quanh cái nôi nguyên thủy Đa
Bút là Báo Đồng, quê hương Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, những vị chúa lừng danh, là
núi Hùng Lĩnh với cuộc khởi nghĩa Tống Duy Tân nổi tiếng, là động tiên Kim Sơn
29 ngọn cao thấp trùng điệp như voi, ngựa, tàn, kiệu nhấp nhô, là động Eo Lê
đêm ngày mở rộng cửa Bồng Lai ngắm cảnh Thành Nhà Hồ...
Sự kỳ diệu của
Thành Nhà Hồ đặt giữa một không gian văn hóa rộng lớn bao la sông núi, bát ngát
đồng lúa vườn cây, vây quanh xóm làng xanh tươi, trù mật và chỗ gần nơi xa,
khắp nơi thấp thoáng danh lam, ẩn hiện cổ tích. Những Đốn Sơn, chùa Du Anh, núi
Tiến Sĩ, động Hồ Công... đều đắm trong không khí tâm linh, sắc màu huyền thoại.
Vinh quang Thành
Nhà Hồ dù ghi danh nhà Hồ cũng không thuộc nhà Hồ. Trong thời gian bị vua nhà
Minh giam lỏng ở Trung Quốc, Hồ Quý Ly ngẫm nghĩ nhiều về những năm tháng oanh
liệt, quyền nghiêng thiên hạ của đời mình, làm bài thơ “Cảm hoài” nhận ra việc
lớn “xây thành rời đô”, là sai lầm không thể sửa, phải ôm hận khóc vì thua, kém
xa việc vua Bàn Canh (nhà Thương Trung Quốc) dời đô, kém tể tướng Lý Bật (nhà
Đường Trung Quốc) tài trị nước an dân:
Nam quan thiều
đệ ưng đầu bạch,
Bắc quán Yêm lưu
giác mộng kinh
Tướng quốc tài nan tàm Lý
Bật
Thiên đô kê
chuyết khốc Bàn Canh...
Hồ Quý Ly tự dịch Nôm:
Quê người dễ
thấy đầu dần bạc,
Quán khách khôn
cầm tóc trắng xanh
Tướng quốc ắt
chăng tài Lý Bật
Thiên đô còn
phải hận Bàn Canh...
Thành Nhà Hồ
do công sức của nhân dân, vinh quang cũng thuộc về nhân dân. Nếu tôi có tiền và
được chính quyền cho phép, tôi sẽ dựng lên trước cửa Nam thành một pho tượng
người khổng lồ xứ Thanh, người khổng lồ Việt Nam đang vác trên vai trần cả trái
núi đá để xây nên một công trình tuyệt mĩ, một “Di sản văn hóa thế giới” được
bốn phương ngưỡng mộ. Thành Nhà Hồ
được tôn vinh, nếu chúng ta quy công cho Hồ Quý Ly để làm lễ kỷ niệm lớn, cúng
tế linh đình là hoàn toàn không đúng.
HTP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét